Xem Nhiều 6/2023 #️ Hành Hương Về Miễu Bà Chúa Xứ Bàu Mướp – Tịnh Biên – An Giang # Top 12 Trend | Iseeacademy.com

Xem Nhiều 6/2023 # Hành Hương Về Miễu Bà Chúa Xứ Bàu Mướp – Tịnh Biên – An Giang # Top 12 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Hành Hương Về Miễu Bà Chúa Xứ Bàu Mướp – Tịnh Biên – An Giang mới nhất trên website Iseeacademy.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Hành Hương về Miễu Bà Chúa Xứ Bàu Mướp – Tịnh Biên – An Giang

Tịnh Biên – An Giang là vùng đất có nhiều huyền thoại linh thiêng cùng danh lam thắng cảnh nổi tiếng như Khu du lịch Lâm Viên Núi Cấm, Rừng Tràm Trà Sư, núi Két, cụm di tích chùa Phật Thới Sơn, chùa Phước Điền, đình Thới Sơn…trong đó không thể không nhắc đến Miễu Bà Chúa Xứ Bàu Mướp mang giá trị tâm linh sâu sắc, trở thành điểm đến lý tưởng cho khách hành hương từ khắp mọi miền đất nước.

Khi khai lập, miễu Bà chỉ là một ngôi miễu nhỏ bằng cây lá đơn sơ. Đến năm 2011, qua nhiều lần sửa chữa, miễu được xây dựng uy nghi và to đẹp với quy mô rộng khoảng 1,7 héc-ta. Miễu nhìn ra cánh đồng lúa xanh rì, tạo cho du khách cảm giác thư thái, nhẹ nhàng mỗi khi đặt chân đến đây.

Còn có công trình khác ở phía sau chánh điện như: nhà hậu. Hai bên nhà hậu là hai dãy Đông lang và Tây lang – nơi làm việc của Ban hội miễu, phòng họp, phòng nghỉ của hương chức đình miễu bạn, phòng tiếp khách và phòng lưu trữ trang phục cùng những bảo vật khách thập phương dâng cúng Bà.

Nhà bia liệt sĩ hình lục giác, rộng 186m2, nền cao 0,6m, cột tròn, mái bê tông ốp ngói. Đây là nơi tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc của thị trấn Nhà Bàng.

Với tín ngưỡng dân gian, vẻ đẹp kiến trúc, cùng những đóng góp trong hai cuộc kháng chiến cứu nước, miễu Bà Chúa xứ Bàu Mướp được công nhận là di tích lịch sử văn hóa của tỉnh An Giang năm 2012.

Hàng năm, cứ đến ngày 19-4 (âm lịch) là người dân địa phương và du khách thập phương lại đến tham gia Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Bàu Mướp, với phần lễ nghi rất long trọng để cầu mong gia đạo yên vui, công việc làm ăn phát đạt. Tính nhân văn, tính linh thiêng trong Lễ hội vía Bà Chúa xứ Bàu Mướp từ lâu đã ăn sâu vào tâm thức cộng đồng cư dân gần xa.

Đề Cử Top 10 Điểm Đến Hấp Dẫn An Giang (P7) Miếu Bà Chúa Xứ Bàu Mướp, Huyện Tịnh Biên

Đề cử TOP 10 điểm đến hấp dẫn An Giang (P7) Miếu Bà Chúa Xứ Bàu Mướp, huyện Tịnh Biên

Nằm ở vùng quê yên tĩnh, thơ mộng, xa xa là ngọn Anh Vũ Sơn huyền bí, miễu Bà Chúa xứ Bàu Mướp (thị trấn Nhà Bàng, Tịnh Biên) có cùng nguồn gốc từ thời khai hoang lập làng Thới Sơn. Với tín ngưỡng dân gian, vẻ đẹp kiến trúc, cùng những đóng góp trong hai cuộc kháng chiến cứu nước, miếu Bà Chúa xứ Bàu Mướp được công nhận là di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh của tỉnh năm 2012.

Miễu Bà Chúa xứ Bàu Mướp trước đây thuộc ấp Sơn Đông (xã Thới Sơn, Tịnh Biên), nay thuộc khóm Sơn Đông (thị trấn Nhà Bàng). Vào giữa thế kỷ XIX, khi khai hoang lập làng vùng đất Thới Sơn, Đức Phật Thầy Tây An cho lập ngôi miễu để người dân có nơi thờ cúng, thỏa mãn nhu cầu tâm linh, yên tâm khởi nghiệp. Trước miếu lúc ấy là một bàu nước ngọt thiên nhiên rất lớn, quanh năm không bao giờ cạn. Trên mặt bàu là những dây mướp rừng chằng chịt, nên người dân gọi là Bàu Mướp và tên gọi miếu Bà Chúa xứ Bàu Mướp ra đời cách nay trên 160 năm.

Khi khai lập, miếu Bà chỉ là một ngôi miếu nhỏ bằng cây lá đơn sơ. Đến năm 2011, qua nhiều lần sửa chữa, miếu được xây dựng uy nghi và to đẹp. Sân miếu rộng, thoáng đãng, lót đá núi, có nhiều cây xanh và hoa kiểng tạo dáng nghệ thuật cầu kỳ. Miếu gồm 3 gian, 2 chái, nóc cổ lầu, mái tam cấp đổ bê tông ốp ngói men màu vàng âm dương. Bố cục chia làm 4 phần: Vỏ ca, phủ quy, chính điện và nhà hậu.

Ngoại thất kết cấu dạng “chữ Tam” với 3 bộ nóc cao sừng sững. Vỏ ca không xây vách, tạo không gian rộng rãi, thoáng đãng, tạo thuận lợi cho hoạt động lễ hội, tham quan lễ bái. Nối liền vỏ ca với chính điện là căn phủ quy. Nơi đây đặt 3 bàn thờ: Giữa là bàn thờ Tổ quốc và di ảnh Bác Hồ, hai bên là bàn thờ Tả và Hữu ban ngoại. Chính điện là nơi thờ tự chính – nơi đặt bàn thờ Thánh Mẫu Tiên Nương (Bà). Mặt bệ bằng đá hoa cương, bên trên là tượng Bà uy nghiêm.

Quanh tượng trang trí đèn pha lê mạ đồng, tỏa sáng huyền nhiệm, sắc màu lấp lánh, thể hiện sự uy linh của Bà. Hai bên bệ thờ Bà là bàn thờ Tả ban và Hữu ban với chất liệu gạch xây tô xi măng giả gỗ… Giữa hậu điện là bàn thờ Phật Thầy Tây An với biểu tượng bức Trần điều. Hai bên trái phải là bàn thờ Tổ nhạc lễ và Cửu huyền thất tổ…

Ngày nay, Miếu Bà Chúa xứ Bàu Mướp không chỉ là nơi thờ tự, tín ngưỡng tâm linh, là điểm du lịch thu hút đông đảo du khách, nhất là khách nước ngoài, còn là nơi ghi nhận những tấm lòng vàng, nơi đón tiếp những người con xa xứ, nơi gửi gấm tình thương của bà con gần xa đến với đồng bào nghèo, khó khăn miền núi. Miếu Bà Chúa xứ Bàu Mướp còn là cầu nối giữa Đảng, chính quyền và nhân dân trong việc thi đua yêu nước, chung tay xây dựng nông thôn mới, “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bàn sắc dân tộc”, góp phần xây dựng quê hương Tịnh Biên ngày càng văn minh, giàu đẹp.

Topplus (tổng hợp) – nguồn hình internet

How To Get To Miễu Bà Chúa Xứ In Thủ Đức By Bus?

Public Transportation to Miễu Bà Chúa Xứ in Thủ Đức

Wondering how to get to Miễu Bà Chúa Xứ in Thủ Đức, Vietnam? Moovit helps you find the best way to get to Miễu Bà Chúa Xứ with step-by-step directions from the nearest public transit station.

Moovit provides free maps and live directions to help you navigate through your city. View schedules, routes, timetables, and find out how long does it take to get to Miễu Bà Chúa Xứ in real time.

Looking for the nearest stop or station to Miễu Bà Chúa Xứ? Check out this list of stops closest to your destination: Đh Nông Lâm; Khu Công Nghệ Cao Q9; Đại Học Nông Lâm.

You can get to Miễu Bà Chúa Xứ by Bus. These are the lines and routes that have stops nearby – Bus: 19, 33, 50, 60-3

Want to see if there’s another route that gets you there at an earlier time? Moovit helps you find alternative routes or times. Get directions from and directions to Miễu Bà Chúa Xứ easily from the Moovit App or Website.

We make riding to Miễu Bà Chúa Xứ easy, which is why over 930 million users, including users in Thủ Đức, trust Moovit as the best app for public transit. You don’t need to download an individual bus app or train app, Moovit is your all-in-one transit app that helps you find the best bus time or train time available.

Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam An Giang

Bà Chúa Xứ là nhân vật truyền thuyết được thờ tự ở núi Sam (Châu Đốc, An Giang). Miếu Bà Chúa Xứ là một di tích nổi tiếng ở Núi Sam, Châu Đốc. Hàng năm thu hút gần hai triệu lượt người đến cúng bái, tham quan. Khách hành hương, du lịch không những đến từ các tỉnh lân cận mà còn từ các tỉnh xa như miền Đông, miền Trung… tạo nên mùa lễ hội sôi nổi, đông đảo ở núi Sam suốt nhiều tháng.

Với người dân miền Tây Nam bộ, Bà Chúa Xứ núi Sam có công đức giúp bà con sống an bình. Vì thế hàng trăm năm nay người An Giang đã lập miếu Bà Chúa Xứ, thờ tự Bà như thần. Mỗi năm vào ngày vía bà (từ tháng 4 âm lịch kéo dài cho đến đầu tháng 6), rất đông khách hành hương từ các nơi về cúng bái, cầu may, xin phúc, vay tiền làm ăn.

Theo truyền tụng trong dân gian thì tượng “Bà” đã có lâu đời.

Miếu Bà có từ bao giờ? Đến nay chưa có sử liệu nào ghi lại một cách chính xác. Trong dân gian tương truyền rằng: Cách đây gần 200 năm, núi Sam còn hoang vu, cây cối rậm rạp, nhiều thú dữ, dân cư thưa thớt, giặc biên giới thường sang khuấy nhiễu.

Một hôm, có một toán giặc Xiêm leo lên núi Sam phát hiện được pho tượng cổ bằng đá rất đẹp. Động lòng tham, chúng xeo nại, tìm cách khiêng đi nhưng không thể nào xê dịch được. Sau hàng giờ vất vả với pho tượng, chúng tức giận, đập phá làm gãy cánh tay trái pho tượng.

Sau khi chúng bỏ đi, trong làng có một bé gái đang đùa giỡn bỗng dưng ngồi lại, mặt đỏ bừng, đầu lắc lư, tự xưng là Chúa Xứ Thánh Mẫu, nói với các bô lão: “Tượng Bà đang ngự trên núi, bị giặc Xiêm phá hại, dân làng hãy đưa Bà xuống”. Dân làng kéo nhau lên núi, quả thật tượng Bà đang ngự gần trên đỉnh. Họ xúm nhau khiêng tượng xuống làng với mục đích gìn giữ và phụng thờ. Bao nhiêu tráng đinh lực điền được huy động, các lão làng tính kế để đưa tượng đi nhưng không làm sao nhấc lên được dù pho tượng không phải là quá lớn, quá nặng.

Các cụ bàn nhau chắc là chưa trúng ý Bà nên cử người cầu khấn. Quả nhiên bé gái hôm nọ lại được Bà đạp đồng mách bảo: “Hãy chọn chín cô gái đồng trinh để đem Bà xuống núi”.

Dân làng mừng rỡ tuyển chín cô gái dẫn lên núi, xin phép Bà được đưa cốt tượng xuống. Lạ thay, chín cô gái khiêng tượng Bà đi một cách nhẹ nhàng.

Xuống đến chân núi, tượng bỗng nặng trịch, các cô phải đặt xuống đất và không nhấc lên nổi nữa. Dân làng hiểu rằng Bà muốn ngự nơi này nên tổ chức xin keo, được Bà chấp thuận và lập miếu thờ. Hôm đó là ngày 25 tháng 4 âm lịch, dân làng lấy ngày này làm lễ vía Bà.

Lúc đầu, miếu Bà được xây dựng đơn sơ bằng tre lá, nằm trên vùng đất trũng, lưng quay về vách núi, chánh điện nhìn ra cánh đồng bát ngát. Sau nhiều lần trùng tu, miếu Bà khang trang hơn.

Năm 1870, ông Giáo Gia đề xướng xây cất lại thành ngôi miếu ngói và sau đó còn trùng tu nhiều lần, miếu được xây lại bằng đá miểng và lợp ngói, thu hút khách thập phương đến chiêm bái, tín ngưỡng.. Kiến trúc miếu có dạng chữ “quốc”, hình khối tháp dạng hoa sen nở, mái tam cấp ba tầng lầu, lợp ngói đại ống màu xanh, góc mái vút cao như mũi thuyền đang lướt sóng. Bên trong miếu có võ ca, chánh điện, phòng khách, phòng của Ban Quý tế…

Đến năm 1972, miếu được xây dựng mới, đồ sộ và lộng lẫy theo lối kiến trúc cổ khính phương Đông. và hoàn thành vào năm 1976, tạo nên dáng vẻ như hiện nay, và người thiết kế là kiến trúc sư Huỳnh Kim Mãng.Mái cong nhiều tầng lợp ngói xanh, tường ốp gạch men bóng láng nhập từ nước ngoài, các khung cửa bằng gỗ quí được chạm trổ hoa văn công phu, mỹ thuật. Chánh điện cao rộng, thoáng khí, vừa uy nghi vừa ấm cúng. Công trình là một quần thể hoành tráng trên mặt bằng rộng với dãy đông lang, tây lang, nhà khách… Bao bọc xung quanh cũng với kiến trúc mái cong, theo đồ án của kiến trúc sư Huỳnh Kim Mãng, nhưng xây dựng dở dang. Mãi đến năm 1995. Ban Quản trị lăng miếu núi Sam mới tiếp tục xây dựng phần còn lại. Trường học được cải tạo thàng nhà trưng bày đồ sộ, hài hòa với miếu.

Tượng Bà đặt giữa chánh điện, đội mão sặc sỡ, mặc áo bào thêu rồng phụng, kim tuyến lấp lánh. Khánh hành hương đã dâng cúng cho Bà hàng ngàn áo mão không sử dụng hết, có cái được đặt may từ nước ngoài trị giá vài cây vàng.

Tượng Bà là một tác phẩm nghệ thuật tạc bằng đá son, có từ thế kỷ thứ 6. Dáng người ngồi nghĩ ngợi, khoan thai, thuộc loại tượng thần Vít-nu có nhiều ở Ấn Độ, Lào, Campuchia. Trước kia có nhiều hình thức cúng bái mê tín như xin xăm, xin bùa, uống nước tắm Bà để trị bệnh… Ngày nay, những hủ tục đó không còn nữa. Đa số khách đến viếng thăm để dâng hương cầu tài, cầu lộc, thể hiện lòng tạ ơn Bà bằng nhiều hình thức: Cúng heo quay, cúng tiền, lễ vật lưu niệm hoặc các tiện nghi phục vụ cho miếu. Các vật lưu niệm ngày nay quá nhiều. Ban Quản trị đưa vào khu nhà lưu niệm để trưng bày. Tiền hỷ cúng hằng năm lên tới vài tỉ đồng (trong đó có vàng, đô-la). Nguồn tài chánh này ngoài việc trùng tu, xây dựng lăng, miếu còn góp phần vào nhiều công trình phúc lợi xã hội địa phương như: Làm đường, xây trường học, bệnh xá, đóng góp quỹ từ thiện, khuyến học…

Các lễ cúng ở miếu Bà vẫn được duy trì theo nghi thức cổ truyền. Vào lúc nửa đêm 23 rạng 24 tháng 4 âm lịch, lễ tắm Bà được tiến hành khoảng hơn 1 giờ đồng hồ nhằm lau sạch bụi bặm sau một năm dài. Lễ được chuẩn bị từ lúc 23 giờ 30 và bắt đầu lúc 0 giờ. Các vị bô lão trong lễ phục áo dài khăn đóng lên đèn, niệm hương, dâng rượu, dâng trà… Xong phần nghi thức, khoảng 4 đến 5 phụ nữ đứng tuổi, có uy tín trong làng tiến hành việc tắm Bà. Sau khi cởi áo mão, các vị dùng nước sạch có ngâm hoa lài tỏa mùi thơm ngào ngạt để lau cốt tượng. Xong, xịt nước hoa rồi mặc áo mão mới cho Bà. Mặc dù công việc này được thực hiện sau bức màn che nhưng có hàng ngàn người chen chúc nhau đến chứng kiến ngoài vòng rào chánh điện.

Lễ túc yết và lễ xây chầu được tiến hành trong đêm 25 rạng 26 tháng 4 âm lịch, đây là cuộc lễ chính trong lễ hội vía Bà. Từ đầu hôm, hàng chục ngàn người đã tụ về miếu Bà để được tham dự cuộc hành lễ này. Trước đó, hồi 15 giờ cuộc lễ thỉnh sắc thần được tiến hành trọng thể trong tiếng trống lân rộn rã. Các bô lão và thanh niên trong lễ phục, xếp hai hàng dưới bóng cờ, lộng sặc sỡ, hộ tống long đình rước bài vị của Ông Thoại Ngọc Hầu và hai vị phu nhân từ lăng về miếu.

Đúng 0 giờ, cuộc lễ túc yết bắt đầu với sự điều khiển của chánh bái và bốn đào thày. Lễ vật dâng cúng là một con heo trắng đã cạo mổ xong và một dĩa mao huyết tượng trưng cho con heo sống cùng với các mâm xôi, ngũ quả… Trong tiếng nhạc lễ và chiêng trống trỗi lên từng hồi, ông chánh bái và các đào thày dâng hương, dâng rượu, đọc văn tế, dâng trà. Lễ xây chầu được nối tiếp khi ông chánh bái cầm nhành dương vãi nước và đọc: “Nhất xái thiên thanh, nhị xái địa ninh, tam xái nhơn trường, tứ xái quỹ diệt hình: (có nghĩa là thứ nhất vãi lên trời xanh mong điều cao đẹp, thứ hai vãi xuống đất cho được màu mỡ, trúng mùa, thứ ba vãi loài người được trường thọ, thứ tư vãi diệt loài quỷ dữ). Xong, chánh bái ca công nổi trống ba hồi, đoàn hát bộ trên sân khấu trong võ ca trước chánh điện đã chuẩn bị sẵn, nổi trống theo và kéo màn trình diễn.

Đến 4 giờ sáng ngày 27 tháng 4 âm lịch, lễ chánh tế được tiến hành như lễ túc yết nhưng đơn giản hơn và 15 giờ cùng ngày đoàn thỉnh sắc làm lễ hồi sắc, đưa bài vị ông Thoại Ngọc Hầu và hai phu nhân trở về lăng, kết thúc một mùa vía.

Có ý kiến khác cho rằng Thoại Ngọc Hầu hoặc vợ là bà Châu Thị Tế xây dựng miếu. Tuy khó xác minh, nhưng biết chắc là miếu ra đời sau khi Thoại Ngọc Hầu về đây trấn nhậm và kênh Vĩnh Tế đã hoàn tất (1824) mang lại lợi ích rõ rệt cho lưu dân và dân bản địa.

Các hoa văn ở cổ lầu chính điện, thể hiện đậm nét nghệ thuật Ấn Độ. Phía trên cao, các tượng thần khỏe mạnh, đẹp đẽ giăng tay đỡ những đầu kèo. Các khung bao, cánh cửa đều được chạm trổ, khắc, lộng tinh xảo và nhiều liễn đối, hoành phi ở nơi đây cũng rực rỡ vàng son. Đặc biệt, bức tường phía sau tượng bà, bốn cây cột cổ lầu trước chính điện gần như được giữ nguyên như cũ.

Các nhà chuyên môn cho biết tượng Bà Chúa được tạo vào khoảng cuối thế kỷ 6 đầu thế kỷ thứ 7, bằng đá son, có giá trị nghệ thuật cao. Khi xưa, tượng Bà ngự trên đỉnh núi Sam, gần Pháo Đài. Chứng minh cho điều này là bệ đá Bà ngồi vẫn còn tồn tại. Bệ đá có chiều ngang 1,60m; dài 0,3m, chính giữa có lỗ vuông cạnh 0,34m, loại trầm tích thạch màu xanh đen, hạt nhuyễn.

Tượng thờ này thuộc nền văn hóa Óc Eo, mang mô típ mỹ thuật Bà-la-môn giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ, tương tự tượng Phật Bốn Tay ở chùa Linh Sơn ( thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn, An Giang). Và thực ra đây không phải là tượng người phụ nữ mà là tượng nam thần đang ngồi trầm tư, nghĩ ngợi, thường gặp trong các tín ngưỡng chịu ảnh hưởng của Bà-la-môn giáo.

Nhà văn Sơn Nam cũng đã ghi: Tượng của Bà là pho tượng Phật đàn ông của người Khơme, bị bỏ quên lâu đời trên đỉnh núi Sam. Người Việt đưa tượng vào miễu, điểm tô lại với nước sơn, trở thành đàn bà mặc áo lụa, đeo dây chuyền. Và từ đó “Bà Chúa Xứ” là vị thần có quyền thế lớn ở khu vực ấy, xứ ấy…[3]

Và ngoài các bàn thờ Hội Đồng, Tiền hiền, Hậu hiền; cạnh tượng Bà Chúa Xứ, phía bên phải có thờ một tượng nữ thần nhỏ bằng gỗ, gọi là Bàn thờ Cô; phía bên trái có một Linga bằng đá rất to, cao khoảng 1,2m, gọi là Bàn thờ Cậu.

Truyền Thuyết Miếu Bà Chúa Xứ.

1. Có truyền thuyết kể rằng, một hôm dân địa phương vào núi đốn củi, tình cờ họ phát hiện tượng bà nằm ở giữa rừng, bèn về báo cho dân làng, sau đó dân làng đã cùng nhau đưa tượng về, lập miếu thờ.

2. Một truyền thuyết khác kể rằng có một vị thần linh tự xưng là Bà Chúa Xứ Châu Đốc đã báo mộng cho dân làng; Hãy chọn 9 cô gái đồng trinh lên đỉnh núi Sam, đưa tượng ta về lập miếu thờ, ta sẽ phù hộ cho dân sống an lành và làm ăn phát đạt. Sau đó, 9 cô gái được chọn cử lên đỉnh núi tìm tượng đá và quả nhiên, họ đã gặp một tượng đá trong tư thế ngồi, mắt nhìn thẳng về phía trước, bèn khiêng về, kỳ rửa sạch sẽ, và lập miếu thờ. Từ đó, hằng năm dân làng lấy ngày tượng bà được “an vị” tại miếu làm ngày lễ Vía Bà.

3. Một truyền thuyết khác nữa gắn với chiến công của Thoại Ngọc hầu và việc trùng tu ngôi miếu làm ngày lễ Vía Bà. Dưới triều Minh Mạng, khi Thoại Ngọc hầu giữ trọng trách trấn giữ biên giới tây nam, giặc ngoại xâm thường sang quấy nhiễu. Mỗi lần ông xuất quân, bà vợ thường đến khấn vái, mong Bà phù hộ Thoại Ngọc Hầu đánh thắng giặc, bảo vệ cuộc sống yên lành cho dân. Về sau, để tạ ơn những điều ứng nghiệm, vợ Thoại Ngọc Hầu đã cho xây cất lại ngôi miếu to và khang trang hơn. Lễ khánh thành được tổ chức trong 3 ngày 24, 25, 26 tháng 4 âm lịch. Từ đó về sau thành lệ, dân chúng lấy những ngày trên làm lễ Vía bà. Nếu chi tiết này có thật, thì đây cũng là một thông tin cho biết thêm rằng miếu Bà Chúa Xứ được xây dựng từ thời Minh Mạng.

4. Lại có truyền thuyết gắn với lễ Vía bà với tập quán sản xuất nông nghiệp ở địa phương, cho rằng tháng tư là thời vụ bà con xuống giống làm mùa. Họ làm lễ cầu Bà, hy vọng mùa sẽ được bội thu. Nhân dịp này, dân chúng tổ chức những cuộc vui chơi, rồi lâu dần thành lệ. Từ một hội làng Vĩnh Tế mang đặc điểm lễ cầu mùa trong nông nghiệp đã dần biến thành lễ Vía bà, thu hút đông đảo khách thập phương từ các nơi ngày càng đông.

Bạn đang xem bài viết Hành Hương Về Miễu Bà Chúa Xứ Bàu Mướp – Tịnh Biên – An Giang trên website Iseeacademy.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!