Xem Nhiều 3/2023 #️ Kinh Nhật Tụng: Vạn Phật Thánh Thành # Top 7 Trend | Iseeacademy.com

Xem Nhiều 3/2023 # Kinh Nhật Tụng: Vạn Phật Thánh Thành # Top 7 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Kinh Nhật Tụng: Vạn Phật Thánh Thành mới nhất trên website Iseeacademy.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Publisher Description

Quyển cẩm nang này gồm có nghi thức tụng kinh  sáng và  tối  hàng ngày cũng như các nghi lễ đặc biệt trong các tu viện  Phật giáo Đại thừa. Phần văn bản tiếng Trung Hoa của các nghi lễ được đi kèm với tiếng Việt và tiếng Anh cũng như phiên âm theo pinyin để phát âm.

Buổi tụng kinh sáng, theo truyền thống từ 4 đến 5 giờ sáng mỗi sáng sớm, bao gồm thần chú Lăng Nghiêm (từ Kinh Lăng Nghiêm),  Chú Đại Bi cùng các thần chú khác ngắn hơn, Tâm Kinh, và Mười Đại Nguyện của Đức Bồ Tát Phổ Hiền từ Kinh Hoa Nghiêm.

Lễ buổi tối theo truyền thống từ 6 đến 7 giờ tối và luân phiên giữa Kinh A Di Đà và Lễ Sám Hối Tám Mươi Tám Vị Phật.

Ngoài ra, quyển cẩm nang này còn có các nghi lễ phóng sanh, tắm Phật, Lễ  Đại Bi Sám cùng các nghi lễ khác. Cẩm nang này cũng có Kinh Vu Lan, là kinh về thực hành hiếu hạnh.

This handbook contains the liturgy for daily morning and evening recitation as well as for special ceremonies in Mahayana Buddhist monasteries. The text for these ceremonies is in Vietnamese and is accompanied by Pinyin Romanization and English translation. Morning ceremony, which traditionally last from 4 to 5 am every morning, consists of the Surangama Mantra (from the Surangama Sutra), the Great Compassion Mantra and other shorter mantras, the Heart Sutra, and the Ten Great Vows of Samantabhadra (Universal Worthy) Bodhisattva taken from the Avatamsaka (Flower Adornment) Sutra. Evening ceremony traditionally lasts between 6 to 7 pm and alternates between the Amitabha Sutra and the Eighty-Eight Buddha Repentance Ceremony. In addition, the handbook contains ceremonies for liberating life, bathing the Buddha, the Great Compassion Repentance Ceremony, among others. It also includes the Ullambana Sutra, the sutra on the practice of filial piety.

30 Ngày Thiền Thất Bên Trong Vạn Phật Thánh Thành

Tôi đã từng nghe về một Vạn PhậtThánh Thành cách đây vài mươi năm về trước, khi từ thời ngài Tuyên Hóacòn sống trước năm 95 nhưng quả thậttôi chưa đủ duyên để diện kiến ngài vàtu học dưới mái chùa ngài. Trong bản nội quy mà khách Tăng/Ni phải tuân theo khi đến viếng Vạn Phật Thánh Thánh gồm có 10 điều tóm tắt như sau:

1) Phải được phép của giới sư khi đến ở lại VPTT.

2) Phải có giấy giới thiệu của ngôi chùa mình ở.

3) Luôn mặt áo giới khi ra ngoài.

4) Một ngày ăn một bữa.

6) Không đi lang thang ra ngoài khuôn viên của VPTT.

KHÓA TU PHẬT THẤT.

Ngày thứ 1:

Buổi sáng tinh mơ, đúng 3.25am tiếng bảng (bằng tay) đã đứng thức chúng Tăng dậy. Sau đó 3 phút, tiếng bảng bằng máy tiếp tục đánh lên, và cứ thế sau 10 phút lại đánh lên nữa. Tiếng bảng chát chúa vang lên trong đêm khuya, không ai có thể ngủ mê thêm nữa dù lười đến đâu! Nước rửa mặt lạnh như nước đá sẽ làm mọi người tỉnh táo. H.T khai thị: Mặc mặc cảm ứng, mặc mặc trung. Trực chỉ sơn cùng thủy tận xứ, Tiêu dao Pháp-giới nhậm Tây Đông.

Nghĩa là:

Đến khi núi mòn sông cạn hết, Tiêu diêu Pháp-giới khắp Đông Tây. Quang quang tương chiếu; Khổng khổng tương thông.

Nghĩa là:

Ánh sáng này chiếu ánh sáng kia; Lỗ lông này thông lỗ lông kia.

Thêm vào đó, cổ nhân lại có câu:

“Quân tử cầu chư kỷ, Tiểu nhân cầu chư nhân.”

Nghĩa rằng:

Nhược yếu nhân bất tử, Tiên hạ tử công phu.

Nghĩa là:

Mình nếu muốn không chết, Thì phải tu hết mình. “Tử công phu” (tu hết mình),

Nghĩa là:

Lòng người tu Đạo chớ ngờ nghi, Nghi ngờ nổi dậy liền mờ mê. Tử tâm nhiệt như hỏa, Bất thị nhiệt tha nhân, Tiệm tiệm luân đáo ngã.

Nghĩa là:

Ta thấy người ấy chết, Lòng ta nóng như lửa, Chẳng phải nóng cho người, Mà từ từ lửa tới ta. Trường giang, hậu lãng thôi tiền lãng.”

Nghĩa là

“Sông Trường giang, sóng sau đẩy sóng trước.” Ngày thứ 2: H.T Tuyên Hóa khai thị. Tất cả, tất cả, thật, thật, thật. Nam Bắc sơn đầu ngọa thổ nê.

Nghĩa là:

Nằm dưới đất bùn khắp núi đầy non. “Một chút thời gian, một chút mạng sống.” “Thân không bịnh khổ, Tâm chẳng tham luyến, Như nhập Thiền-định, Vui cười vãng sinh.”

Đó mới là nắm chắc được việc sinh tử trong tay mình vậy!

Ngày thứ 3:

Rét chết không phan duyên Đói chết không hóa duyên Nghèo chết không cầu duyên Tức sự minh lý, minh lý tức sự Tự hỏi: Mình có tranh không? Tự hỏi: Mình có tham không? Tự hỏi: Mình có cầu không? Tự hỏi: Mình có ích kỷ không? Tự hỏi: Mình có tự lợi không? Tự hỏi: Mình có vọng ngữ không? Tự hỏi: Mình có ăn ngày một bữa không? Tự hỏi: Mình có luôn đắp y giới không? Lời H.T dạy:

Chúng ta lúc nào cũng ở trong mộng. Rằng:

Nhân tử mộng nhất trường. Mộng lý thân vinh quý, Mộng tỉnh tại cùng hương, Triều triều thị tác mộng, Bất giác mộng hoàng lương, Mộng trung nhược bất giác, Uổng tác mộng nhất trường.

Nghĩa là:

Người sống: một tràng mộng, Người chết: mộng một tràng. Trong mộng thân vinh quý, Tỉnh mộng vẫn nghèo xơ, Ngày ngày cứ nằm mộng, Chẳng biết mộng “kê vàng,” Nằm mộng mà chẳng biết, Uổng thay mộng một tràng.

Ngày thứ 4:

Sau khi ăn xong, mọi người tự đi lấy 1 chiếc khăn (để trong chậu nước nóng) gần đó quay lại chỗ mình và chùi sạch sẽ khu vực bàn ăn trước mặt mình, xong để khăn lại trong chậu và cầm bình bát và dĩa của mình đi rửa ở một khu nhà bếp gần đó, rửa xong quay trở lại chỗ cũ để trên bàn như trước và chờ đến 11.50 đi thành hàng ra Chánh điện hồi hướng. Lời H.T khai thị:

Ngày thứ 5:

H.T Tuyên Hóa khai thị: Bớt Nói Chuyện, Dụng Công Cho Nhiều.

Vạn Phật Thánh Thành có sáu đại tông chỉ để hướng dẫn việc tu, tức là: Nếu bạn hiểu rõ sáu tông chỉ này một cách chân thật thì bạn sẽ không uổng đã tới Vạn Phật Thánh Thành. Có một số người rất háo danh, nhưng Vạn Phật Thánh Thành không cần những kẻ đó. Vì sao? Bởi Vạn Phật Thánh Thành muốn dứt trừ ngũ dục: “Tài, sắc, danh, thực, thùy.”

Ngày thứ 6:

“Hưởng phước thì hết phước, Chịu khổ thì hết khổ.” Lão H.T Tuyên Hóa dạy như sau: Tâm lắng, nước hiện trăng. Ý định, trời không mây. Dừng tâm, dứt niệm, giàu sang thật!

Ngài dạy tiếp:

Sáu thức vừa động, tâm bị che mờ.”

Ngày thứ 7:

H.T Tuyên Hóa khai thị. Kiến sự tỉnh sự xuất thế gian KHÓA THIỀN THẤT.

Ngày thứ 1:

Pháp Thiền Thoại Đầu.

1. Khi chưa có trời đất, ta là cái gì ?2. Muôn pháp về một, một về chổ nào ? 3. Trước khi cha mẹ chưa sanh, mặt mũi bổn lai của ta ra sao ?4. Sanh từ đâu đến, chết đi về đâu ? 5. Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật, là cái gì ?

Chương trình khóa Thiền thất gồm các thời gian tu tập như sau: Lời H.T khai thị:

Ngày thứ 2:

Ở trong buổi giảng: “Không trừ vọng tưởng thì Chẳng thể khai ngộ”, ngài dạy:

Ngài dạy:

H.T Khai thị:

Phương pháp “không biết” -trên không biết có trời, dưới không biết có đất, ở giữa không biết có người. Từ sáng đến tối, quý vị làm gì? Không biết! Ăn thức gì? Không biết! Mặc áo gì? Không biết!

Cũng như đang hôn trầm, cái gì cũng không biết. Có câu:

Dưỡng thành đại chuyết phương vi xảo, Học đáo như ngu thủy kiến kỳ.

Nghĩa là: Nếu quý vị làm sao thành như người ngu đần nhất thế giới, thì lúc ấy mới sinh ra sự xảo diệu. Bấy giờ thì:

Nhất liễu, nhất thiết liễu, Nhất ngộ, nhất thiết ngộ.

Nghĩa là:

Ngày thứ 3:

Mới đầu đau, thấu xương đau, đáng sợ đau, Nhẫn chịu đau, tập quen đau, coi thường đau, Nghiệm ra đau, đau, đau, đau, có gì đau! H.T Tuyên Hóa khai thị: (Nếu ai tĩnh tọa chỉ một sát-na,

Ngày thứ 4:

H.T Tuyên Hóa dạy:

Ngày thứ 5:

Ngài dạy:

H.T Tuyên Hóa dạy:

“Nhất thốn quang âm nhất thốn kim, Thốn kim nan mãi thốn quang âm.” (Một phút thời gian, một tấc vàng, Vàng sao mua đặng phút thời gian?)

Lại nói rằng:

“Thất lạc thốn kim dung dị đắc, (Tấc vàng mất đi dễ kiếm lại, Thời gian qua mất khó lòng tìm!)

Người ta nói rằng:

“Vô quy củ bất thành phương viên.” (Không có quy củ thì chẳng thành nề nếp được.)

Ngày thứ 6:

Chỉ trong giây lát ngồi tĩnh tọa,

Nghĩa là:

Không xả được tử, không đổi được sanh Không xả được giả, không thành được chân, Không xả được khổ, không đạt được lạc.

H.T Tuyên Hóa khai thị:

“Đả bất phá danh lợi quan, Khiêu bất xuất luân hồi khuyên,”

nghĩa rằng:

“Đánh không sập cửa danh lợi, Nhảy không thoát vòng luân hồi.”

Ngày thứ 7:

H.T Tuyên Hóa khai thị:

“Phạn ngữ thiền na ba-la-mật Thử vân tịnh lự tế tiến tham Sơn cao thủy thâm vô sở úy Thủy tri triên ngoại biệt hữu thiên.

Thế nào là soi thấu? Là tham! Soi thấu câu “Niệm Phật là ai.” Dù cho núi có cao, biển có sâu tới mức nào mình cũng không sợ hãi. Tới lúc đó mình mới biết bên ngoài bầu trời này còn có những bầu trời kháctrùng trùng vô tận. Do đó mình phải miên mật tham không ngừng, tức là soi vào câu “Niệm Phật là ai.” Soi đi soi lại câu đó cho đến khi “Sơn cùng thủy tận nghi vô lộ,” nghĩa là cho tới chỗ mình tưởng rằng, “Núi đã hết, sông đã cùng, không còn chỗ đi nữa,” thì khi mình quay trở lại tự nhiên sẽ thấy “Liễu ám hoaminh hữu nhất thôn,”

Nghĩa là:

“Sẽ thấy xuất hiện một thôn trang,

Ngày thứ 8:

Ngày thứ 9:

Thế là suốt trong thời gian ở đây, thời gian nào rảnh, dù có 5 phút hay 15 phút, tôi cũng cầm những cuốn sách khai thị và nghiến ngấu đọc, như trước đây chừa từng được đọc. Tôi bỗng trân quý thời gian vô cùng, như lời H.T dạy: (Một phút thời gian, một tấc vàng, Vàng sao mua đặng phút thời gian?)

H.T Tuyên Hóa khai thị:

“Đại địa xuân hồi bách vật sinh

Ngày thứ 10:

H.T Tuyên Hóa khai thị:

“Thập phương đồng tụ hội Giai kỳ học vô vi Thử thị tuyển Phật trường Tâm không cập đệ quy.

Nghĩa là:

Tới lúc đó thì tự tại vô cùng, tự khắc sẽ biết bổn lai diện mục là như thế nào. Tuy nhiên, tới được cảnh giới đó chẳng phải dễ dàng. Bởi vậy mới cần phải gắng sức nhẫn chịu, chịu đựng mọi thống khổ, mọi sựgian nan. Như quả qua được cửa ải này thì sẽ gặp một sự thống khoái: “Chính là ăn bằng niềm vuithiền duyệt, và sống trong pháp hỷ.”

Ngày thứ 11:

Đời sống và trí tuệ trong tu hành cho tôi thấy rõ được sự thật và bản chất của cuộc đời. Đôi khi vạch trần nó ra để soi rọi và quán chiếu, ta thấy được tất cả sự trần trụi, ô trược và khổ đau của chúng sinh làm sao! Cái khổ đau của việc nhận giả làm thật, lấy dơ làm sạch, lấy phải làm quấy, lấy khổ làm vui, nên ngàiTuyên Hóa cũng nói rằng: “Chúng sinh khi sinh ra đã hồ đồ, sống hồ đồ, cả một cuộc đời hồ đồ và khi chết đi cũng hồ đồ.”

H.T Tuyên Hóa khai thị:

Ngày thứ 12:

H.T Khai thị: Ngày thứ 13: H.T Tuyên Hóa khai thị: Đi đứng nằm ngồi Không lìa bỏ nó Lìa bỏ cái đó Tức thành lầm lỗi. Mọi sự qua suông sẻ Khó xả duy nổi nóng Nếu quả không tức giận Đó là hòn ngọc quý Lại không biết hận người Sự việc đều trôi chẩy Phiền não chẳng hề sanh Lấy đâu tạo oan nghiệt? Thường chỉ rặt trách người Khổ đau chuốc mãi mãi.

Dụng công nơi Thiền đường, ta phải ghi nhớ hai câu sau:

Ma-ha-tát, chẳng lý tới kẻ khác Di-đà Phật, ai nấy tự lo lấy! Không bàn lỗi người khác Lỗi người tức lỗi ta

Ngày thứ 14:

H.T dạy:

Thầy Duy-na thưa:

“Bạch Ngài, Ngài đuổi tôi thì được rồi, song tôi muốn xin Ngài một việc, mong Ngài thuận cho.”

Vị Phương-trượng hỏi: “Thầy sắp ra đi, còn muốn yêu cầu gì nữa?”

Thầy Duy-na lại hỏi Phương-trượng: “Thưa Ngài, tôi nên đi về đâu?”

“Đề khởi được” cái gì? Đề khởi được câu “Niệm Phật là ai?”

Ngày thứ 15:

H.T khai thị:

Lão Tử nói rằng:

“Quân tử hữu tạo mệnh chi học, Mệnh do ngã lập, Phước tự kỷ cầu. Họa, phước vô môn, Duy nhân tự chiêu.”

Nghiã là:

“Quân tử có cái học tạo mệnh, Mệnh do mình lập, Phước do mình cầu. Phước với họa chẳng có cửa, Chỉ do mình tự chiêu cảm lấy.”

Ngày thứ 16:

Tôi được biết là những khóa thiền thất sau này (khi không còn H.T nữa) thì đã được điều chỉnh lại thời gian, bởi vì nếu gắt quá thì sẽ khó có nhiều được có đủ khả năng, thời gian, căn cơ mà tham dự. Khi H.T còn sống, có khóa thiền thất lên đến 100 ngày, và thời gian dụng công lên đến 21 tiếng mỗi ngày. Chúng ta hãy đọc một đoạn sau đây về H.T Tuyên Hóa khai thị: “Yếu học hảo, oan nghiệt trảo, Yếu thành Phật, tiên thọ ma.” Một Trăm Ngày Thiền Thất “Muốn học tốt, oan nghiệt tìm, Muốn thành Phật, trước gặp ma.” “Dục cùng thiên lý mục, Cánh thượng nhất tằng lâu. (Muốn thấy tận cùng ngàn dặm, Phải bước lên thêm một tầng lầu.) trong tập khai thị: H.T Tuyên Hóa khai thị: “Kỳ tấn duệ giả, kỳ thối tốc”

Dịch là:

“Tiến càng nhanh, thì lùi cũng rất mau.” “Nhất nhật vô quá khả cải, Tức nhất nhật vô công khả tạo”.

Ngày thứ 17:

“Một ngày chẳng sửa lỗi lầm, Là một ngày chẳng tạo công đức.”

Nghĩa là:

H.T Tuyên Hóa khai thị: “Thực, sắc tánh dã.” “Bão noãn tư dâm dục, Cơ hàn khởi đạo tâm.” Đói lạnh mới khởi lòng trộm cắp.)

Nghĩa là:

H.T Tuyên Hóa khai thị: “Dưỡng thành đại chuyết phương vi xảo, Học đáo như ngu thủy kiến kỳ.”

Ngày thứ 18:

“Dưỡng tâm như dại là tuyệt xảo, Học tới như ngây mới diệu kỳ.” Ma Ha Tát, bất quản tha, Di Đà Phật, các cố các. A Di Đà Phật, ai lo chuyện nấy!) Vạn duyên phóng hạ, (Buông xả mọi chuyện, Một niệm không khởi.)

Ngày thứ 19:

H.T Tuyên Hóa khai thị: Nhẫn phiến khắc, phong bình lãng tĩnh, Thối nhất bộ, hải khoát thiên không. (Nhẫn một chút, gió êm sóng lặng, Lùi một bước, biển rộng trời cao.)

Dịch là:

Bị mao đái giác hoàn! (Một hạt cơm thí chủ, Nặng như núi Tu Di, Ăn rồi không tu hành, Mang lông, đội sừng trả!) Nhất sám tiện tiêu. (Tội lỗi dẫu lớn đầy trời,

Ngày thứ 20:

Thiện ác lưỡng điều đạo, Tu đích tu, tạo đích tạo. Tu thì tu, tạo vẫn tạo.) KHÓA TU CHẤM DỨT.

Ngày thứ 21:

Bởi vậy:

Họ muốn nói đạo lý với tôi, nhưng lại không dám công khai. Họ bèn đi thỉnh giáo vị đoàn trưởng kiêm cố vấn của họ là Pháp Sư Đạt Ma Nan Đà. Pháp Sư Đạt Ma Nan Đà sau khi nghe chuyện, Pháp Sư bènquở trách họ:

Thấy vị cố vấn của họ phản ứng như thế, họ mới không đến tranh cãi với tôi.

Về nhà, Ngài thưa hỏi thân mẫu, bà dạy :

Ngài lại thưa : “ Như vậy, có cách gì thoát khỏi sự chết chăng?”

Bấy giờ trong nhà có vị khách xưa kia từng tu Đạo, đỡ lời đáp rằng:

Tuyên Quy diệu nghĩa chấn gia thanh, Hóa thừa Linh nhạc Pháp Đạo long, Độ dĩ tứ lục truyền tâm ấn, Luân triền vô hưu tế khổ luân.

Ngày lại ngày, Ngài cung kính phụng dưỡng song thân như đối với Đức Phật vậỵ Chẳng bao lâu tiếnghiếu thảo đồn khắp bốn phương, và mọi người đều gọi Ngài là Bạch Hiếu Tử (người con chí hiếu họ Bạch).

Vừa nhìn thấy Ngài, Lão Hòa Thượng, lúc ấy đã 109 tuổi, liền nhận ra ngay sự chứng ngộ của Ngài. Khi đó, Lão Hòa Thượng nói :“Như thị, như thị!” và Ngài cũng đáp lại “Như thị, như thị !” Biết Ngài là bậc ‘pháp khí’, Lão Hòa Thượng Hư Vân ấn chứng sở đắc của Ngài, và Ngài chính thức trở thành vị tổ thứ chín củaThiền Tông Quy Ngưỡng. Lão Hòa Thượng Hư Vân đã bày tỏ sự tin tưởng vào Ngài qua bài kệ:

(2) Phiên dịch kinh điển Phật Giáo, và

Vốn nuôi chí nguyện đem Chánh Pháp truyền bá đến khắp nơi trên toàn thế giới, nên năm 1961, Ngài sang Úc Châu hoằng Pháp; và năm sau, 1962, Ngài đến San Francisco, Hoa Kỳ. Tại đây, nơi một nhà kho nhỏ, Ngài kiên trì tu hành trong im lặng, chờ đợi cơ duyên hoằng dương Đạo Pháp chín muồi. Lúc ấy, Ngài tự gọi mình là Mộ Trung Tăng (nhà sư trong phần mộ), và Hoạt Tử Nhân (người đã chết nhưng còn sống).

Năm 1968, biết cơ duyên đã đến, Ngài nói: “Một đóa hoa sẽ nở ra năm cánh.” Mùa hè năm ấy, Ngài chủtrì Pháp hội giảng Kinh Lăng Nghiêm trong 96 ngày. Khi Pháp hội kết thúc, quả nhiên có năm người Mỹ xin xuất gia với Ngài. Từ đó, Ngài chủ trì nhiều Pháp hội khác giảng giải Tâm Kinh, Kinh Địa Tạng, Kinh Pháp Hoa, Kinh Pháp Bảo Đàn, v.v… Năm 1971, Ngài giảng bộ Kinh tối cao của Đại Thừa, Kinh Hoa Nghiêm .

Vâng theo di huấn của Ngài, tứ chúng đệ tử tại các đạo tràng thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới đềuchuyên tâm trì tụng Kinh Hoa Nghiêm và niệm Phật suốt 49 ngày kể từ hôm Ngài viên tịch. Ngày 12 tháng 6, 1995, Lễ Nhập Quan được cử hành tại Long Beach Thánh Tự; và đến ngày 16 tháng 6, kim quan của Ngài được cung thỉnh về Vạn Phật Thánh Thành. Tại đây, Đại Lễ Truy Ân được tổ chức từ ngày 26 đến ngày 28 tháng 7. Và sau Thánh Lễ Trà Tỳ, ngày 29 tháng 7, tro cốt của Ngài được rải trên địa phận của Vạn Phật Thánh Thành đúng như lời di giáo của Ngài:

Chánh Pháp “Quý vị thành thật tu hành, không ham hư danh giả lợi, không tham của cúng dường -đó chính làChánh Pháp trụ thế. Nếu mọi người xuất gia đều có thể giữ giới không đụng đến tiền bạc (ngân tiền giới), đều có thể ngồi Thiền, có thể ngày ăn một bữa lúc giữa trưa, có thể luôn luôn mặc giới y và nghiêm trì giới luật, thì đó là Chánh Pháp đang trụ thế vậy!”

H.T Tuyên Hóa

Ngày 23 tháng 6 năm 1996, đúng một năm sau ngày Hòa ThượngTuyên Hóa nhập Niết Bàn, Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới long trọngtổ chức Lễ Cung Thỉnh Xá Lợi Hòa Thượng Về Các Đạo Tràng Chi Nhánh. Hòa Thượng Tuyên Hóa đã vĩnh viễn ra đi, nhưng trong tâm trí mọi người vẫn âm vang lời di huấn của Ngài: “Hãy quét sạch tất cả các Pháp, ly khai tất cả các tướng !”

“Nếu quý vị có thể không tranh, không tham, không cầu, khôngích kỷ, không tự lợi, và không nói dối, thì đó chính là Chánh Pháp đang trụ thế vậy!”.

Như vậy, thế nào là thời kỳ Mạt Pháp? Trong quyển 5 của Pháp Hoa Nghĩa Sớ có chép: “Khi “Pháp” trở thành suy vi, đó gọi là thời Mạt Pháp.”

Trong quyển 6, chương Nghĩa Lâm của Đại Thừa Pháp Uyển có nói: “Chỉ có giáo pháp mà không có gì khác thì gọi là Mạt Pháp.”

Tuy nhiên, sự mô tả chân chánh tường tận về thuyết Mạt Pháp được xuất hiện trong phần Nguyệt Tạng của Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập, và trong Kinh Pháp Diệt Tận.

Về sau, thuyết Mạt Pháp xuất hiện dưới triều đại Bắc Tề (550-377 SCN), trong bài văn phát nguyện củaThiền Sư Huệ Tư ở Nam Nhạc (). Thiền Sư Huệ Tư đã tự ghi lại là ngài sanh vào năm thứ 82 của thời Mạt Pháp và đã chép lại toàn bộ Kinh Bát Nhã cùng nhiều bản văn khác. Ngài đã nguyện sẽ truyền Pháp cho đến khi Bồ Tát Di Lặc đến thế gian này.

Nói chung, cho dù thời kỳ Mạt Pháp nhất định có xảy đến chăng nữa, thì trong quyển 49 của Thập Tụng Luật , Đức Phật cũng đã nêu ra năm điều có thể khiến cho Chánh Pháp không bị hủy diệt.

Năm điều này là:

1. . Điều này có nghĩa rằng các Tỳ Kheo chỉ dựa vào giáo pháp chân chánh màtiến tu, xa lánh cái nhìn lệch lạc (thiên kiến) của Tiểu Thừa cùng các tà thuyết của ngoại đạo; nhờ đó có thể khiến cho Chánh Pháp không bị hủy diệt.

3. Kính Sư Thượng Tòa (tôn kính phụng sự các bậc trưởng thượng). Điều này có nghĩa rằng các Tỳ Kheo tôn kính và phục tòng các vị đại đức ở hàng thượng tọa và chuyên cần cầu học yếu nghĩa Phật Pháp từ họ; nhờ đó có thể khiến cho Chánh Pháp không bị hủy diệt.

“Phật Pháp chưa diệt, Tăng tự diệt, Thành thật chân chánh, bị chế giễu, Gian ngoa xảo trá, được tán dương.

Mặc dầu Đức Phật nhiều lần đề cập đến sự hủy diệt của Phật Pháp, tuy nhiên Đức Phật cũng có ý khắc phục sự hủy diệt của Chánh Pháp. Như trong Kinh Niết Bàn có chép:

Hòa Thượng đã cảm khái rằng:

“Tôi muốn nói lời thật, Không sợ bị đánh, chửi. Giết tôi, tôi chẳng sợ, Giải thoát, có gì ngại?”

Phật Giáo có câu: “Thà cả ngàn năm chẳng vãng sanh, còn hơn một ngày trong ma đạo “. Nếu chúng ta thiếu Trạch Pháp Nhãn của “Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối” (trong Kinh Lăng Nghiêm ) e rằng chúng ta có thể trở thành quyến thuộc của loài ma mà chính mình lại không hay không biết!

Để có thể phân biệt chánh tà, ngài dạy ta nên quán xét về bảy điểm như sau:

Hòa Thượng Hư Vân đã nói:

Trong kinh có nói rằng những biểu hiện suy tàn của thời kỳ Mạt Pháp có thể nhận thấy ở khắp nơi – như việc Tăng sĩ cưới vợ, ni cô lấy chồng, giới y cà-sa được thay bằng y phục thế tục, cư sĩ ngồi trên tòa cao, v.v … Có cư sĩ Âu Dương Cánh Vô đã dùng tri kiến riêng của mình mà viết ra Lăng Nghiêm Bách Ngụy Thuyết để phản đối Kinh Lăng Nghiêm .

Lại có Pháp Sư Viễn Tham tuyên bố rằng Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Viên Giác, Kinh Pháp Hoa và nhiều bộ kinh khác, cũng như Đại Thừa Khởi Tín Luận đều là giả mạo. Ở Việt Nam mình thì có T.T Nhật Từ cũngthường xuyên giảng dạy cho chư Tăng Ni và Phật tử (youtube: Kinh Lăng Nghiêm. TNT) rằng, kinh Lăng Nghiêm, kinh Địa Tạng là ngụy tạo do chư tổ Trung Hoa lập ra chứ không phải do Phật thuyết, hoặc là chỉ có 5 cõi chứ không có 6 cõi luân hồi, không có địa ngục.v.v…Người tu hành hoặc một vị giảng sưchân chính khi thuyết giảng điều gì phải y theo Kinh, Luật và Luận, ba tạng giáo điển của chư Phật và chư tổ sư truyền lại để xác lập. Không thể y cứ vào các luận án tiến sĩ của giáo sư này, giáo sư nọ hoặc các tài liệu nghiên cứu từ đại học này, đại học kia, hoặc cũng không thể y cứ kiến thức, tri thức thế gianđể chứng minh Phật giáo và các cảnh giới trong luân hồi là có hay không có. Người xuất gia không khéotu hành, thuyết giảng khắp nơi mà lại tùy tiện diễn giảng theo tư kiến của mình thì sẽ đắc tội với chư Phật, chư tổ. Đây cũng chính là những hiện tượng của thời kỳ Mạt Pháp vậy.

“Trong Phật Giáo, tất cả kinh điển đều rất quan trọng, nhưng Kinh Lăng Nghiêm còn quan trọng hơn nữa. Với ngài thì nơi nào có Kinh Lăng Nghiêm , thì nơi đó có Chánh Pháp trụ thế. Khi Kinh Lăng Nghiêm bị mất đi, đó là dấu hiệu của thời kỳ Mạt Pháp. Khi giảng Kinh Lăng Nghiêm , ngài có nói rằng: ‘Vào thời kỳ Mạt Pháp, Kinh Lăng Nghiêm sẽ bị diệt trước nhất. Sau đó dần dần các kinh khác cũng bị diệt theo.’

Này Ca Diếp! Những người hộ trì Chánh Pháp được quả báo công đức vô lượng như thế. Do nhân duyên hộ trì Chánh Pháp này, mà nay Ta được tướng hảo trang nghiêm và thành tựu được Pháp thân kim cang bất hoại.”

Kinh Lăng Nghiêm là chân thân của Phật, là xá-lợi của Phật, là tháp miếu thờ Phật. H.T nói rằng, nếu Kinh Lăng Nghiêm là ngụy tạo, thì tôi sẵn sàng chịu đọa địa ngục Vô Gián, vĩnh viễn ở chốn địa ngục, không bao giờ được trở lại thế gian để gặp mọi người nữa! Người nào có thể học thuộc Kinh Lăng Nghiêm , học thuộc Chú Lăng Nghiêm, thì người đó chính là đệ tử chân chánh của Phật!”

Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói với Tôn Giả Ca Diếp rằng:

Nếu không còn ai tu hành, không có người nào đọc, tụng, và học thuộc Kinh Lăng Nghiêm, thì đó là thời kỳ Mạt Pháp. Bởi trong Kinh Lăng Nghiêm , có phần “Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối” giảng về sát sanh(sát), trộm cắp (đạo), dâm dục (dâm), dối trá (vọng); với phần “Ngũ Thập Ấm Ma” giảng về thiên ma,ngoại đạo cặn kẽ đến tận xương tuỷ; và cả hai phần này đều nói rất rõ ràng rằng khi nào không còn người giữ giới, thì khi đó là thời kỳ Mạt Pháp. Giới còn, tức là Phật Pháp còn vậy!

Ăn Ngày Một Bữa Và Luôn Mặc Y Giới

Vì sao lại như thế? Hòa Thượng giải thích rằng:

Cái nhìn của Hòa Thượng về việc kiến tạo chùa chiền như sau:

Và, có câu thành ngữ Trung Hoa nói rằng: “Đồ ăn uống sanh ra nam nữ.” Điều này chứng minh rằngdâm dục là từ sự ẩm thực quá lượng mà ra. Và nếu đó là việc “ăn phi thời,” thì đó là vấn đề phá giới.

“1. Ít dục vọng (thiểu dâm); 2. Ít ngủ (thiểu thùy);

Không ăn phi thời là hạnh nguyện mà người xuất gia phải giữ và là điều kiện tiên quyết của việc cạo đầuxuất gia. Hơn nữa, trong Bát Quan Trai Giới của người tại gia cũng có bao gồm giới “không ăn phi thời”. Do đó đây là vấn đề giới luật có được nghiêm trì hay không. Ngoại trừ khi bị bệnh, không có lý luận nào có thể chấp nhận được.

Thêm nữa, trong Kinh Xứ Xứ có liệt kê năm loại phước đức có được do không ăn sau giờ ngọ:

Từ đó chúng ta có thể thấy rằng không ăn sau giờ ngọ thì có thể được phước. Ngoài ra trong Luận Đại Tỳ-Bà-Sa cũng cho rằng:

Trong Kinh Trường Trảo Phạm Chí Thỉnh Vấn có nói:

“Dược thạch (nghĩa thường: thuốc và đá) là thứ dùng để chữa bệnh. Người xưa dùng đá làm kim châm, ngày nay thì người ta dùng sắt. Tất cả đều nhằm mục đích chữa bệnh.”

Trong Kinh Tỳ-Ni Tam Muội có giải thích như sau:

Về ý nghĩa của chữ “dược thạch,” trong quyển 18 của Huyền Ưng Âm Nghĩa có chép:

Trong quyển một của Phật Đình Sự Uyển, Phần La-Hán Dược Thạch, có nói rằng:

Trong Thiền Lâm Tượng Khí, Phần Ẩm Đạm Môn, có nói như sau về dược thạch:

Từ đó có thể thấy rằng danh từ “dược thạch” (thuốc) chỉ là một tên khác để chỉ “bữa ăn tối” được Phật Giáo Trung Hoa phát minh ra mà thôi!.

“Đúng sai cần gì cãi, Thật giả lâu tự biết, Kẻ trí thấy chân thật, Kẻ ngu hành giả dối, Kẻ tốt học Bồ tát, Kẻ xấu dám mắng Phật,

Nói chung, mặc dầu Đức Phật, Đấng Thế Tôn, đã loại bỏ một số giới điều nhỏ trước khi nhập Niết Bàn, nhưng giới không ăn phi thời thì không bỏ được. Quyển 15 của Kinh Tạp A Hàm nói rằng:

Kinh Đại Bi có chép rằng:

Các kinh sách Hòa Thượng đã giảng trong suốt cuộc đờicủa Ngài được liệt kê tổng quát như sau: Kinh Lục Tổ, Kinh Địa Tạng, Kinh A Di Đà, Kinh Bốn Mươi Hai Chương, Bách Pháp Minh Môn Luận, Kinh Di Giáo, Chứng Đạo Ca của Đại Sư Huyền Giác— tất cả có hơn 30 loại khác nhau. Ngoài ra Hòa Thượng còn giải thích về hai lãnh vực triết học của Trung Hoa: và . Trong tất cả những kinh sách này có ba tác phẩm rất đặc biệt, ít có người giảng giải, đó là: Lăng Nghiêm Chú Cú KệSơ Giải, Thủy Kính Hồi Thiên Lục, và Phật Tổ Đạo Ảnh Bạch Thoại Giải (chân dung của chư Tổ Phật Giáo qua lờigiải thích bằng ngôn ngữ dễ hiểu của thời đại ngày nay).

Loạt bài thuyết giảng Lăng Nghiêm Chú Cú Kệ Sơ Giải kéo dài tám năm, từ 1979 đến 1987. Trong suốtlịch sử Phật Giáo, bài chú này hiếm khi được giải thích. Chỉ có Đại Sư Tục Pháp của triều nhà Thanh và Pháp SưBá Đình ở Từ Vân Tự tại Vũ Lâm là từng giảng giải chú này. Pháp Sư Bá Đìnhnghiên cứu Mật Bộ và trước tác bộ Lăng Nghiêm KinhQuán Đảnh Sớ gồm hai mươi sáu quyển, dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Trung Hoa, và sau đó giải thích chi tiết về mật chú này.

Trong Kinh và Chú của Phật Giáo, có “năm loại không phiên dịch” (ngũ chủng bất phiên) bởi vì ngôn ngữbí mật của chư Phật khó cho hầu hết các vị thánh khác hiểu được, chứ đừng nói đến người thường. Mặc dầu theo thông lệ là không dịch các bài chú trong kinh, tuy nhiên người ta có nhiều ý kiến khác nhau vềvấn đề này. Một số người nghĩ rằng việc dịch ý nghĩa của các bài chú có thể mang lại hai mươi bốn loạilợi ích. Vì vậy, khi Hòa Thượng có được bản Lăng Nghiêm Chú Sớ vào năm Dân Quốc thứ 38 (1949), Ngài đã ghi lại:

“Ảo diệu vô cùng thật khó sánh, Trong Chú Lăng Nghiêm đủ hiệu năng “Là Vua Kiên Cố trong các định Thanh tịnh các nghiệp thân, khẩu, ý Đủ đức được gặp câu linh diệu, Luôn luôn đừng quên việc xiển dương.”

Ngài cũng nói:

“Chúng sanh khi tập điều thiện, dù được nắm tay đối mặt, ba lần răn năm lần dạy, vẫn chưa chịuphụng hành; nhưng khi gặp ác duyên thì niệm niệm liền tăng trưởng, tự biết rành rẽ mà chẳng cần ai vẽ bày. Những kẻ lầm đường lạc lối mà biết quay lại, thật ít lắm thay! Do đó, mọi sự giống như ánh trăng đáy nước và bóng hoa trong gương–chỉ có dáng dấp mà thật không hình hài. Đây chính gọi là sự hy vọng việc không thể hy vọng, sự thành tựu việc không thể thành tựu. Bởi lẽ đó nên viết Gương, Nước Về Trời (Thủy Kính Hồi Thiên) vậy”.

Có thể nói rằng Thủy Kính Hồi Thiên Lục chính là ‘nhất mạch tâm truyền’ từ Xuân Thu Bút Sử, và cũng là sách ghi chép về nhân quả sống động, rõ rệt nhất của đời nay. Trong tác phẩm này, trước tiên, Hòa Thượng giới thiệu sơ lược về cuộc đời của mỗi nhân vật, rồi dùng tám câu thơ bốn chữ (bát cú tứ ngôn) để ca ngợi, và sau đó kết thúc bằng một bài thơ “hựu thuyết kệ viết” (lại nói kệ rằng) theo thể thất ngôn. Bộ sách này xứng đáng để xem đi xem lại, có thể giúp người đời hiểu biết về luật nhân quả, xét chuyện đã qua mà biết chuyện sẽ đến, và đoạn ác tu thiện.

Trong bài tựa sách, Hòa Thượng đã viết :

“Thầy gởi cho con bộ Phật Tổ Đạo Ảnh mà Thầy đã hiệu đính trong nhiều năm gần đây. Hãy đọc, và lưu giữ bộ sách này, và Thầy hy vọng con sẽ được lợi ích cho mình, làm lợi ích cho người và trân quý Đạo.” “Con là đệ tử đã thiết tha quan tâm đến Phật Pháp và sự tiếp nối huệ mạng của chư Phật Tổ. Naythuận theo hạnh nguyện của con, Thầy gởi cho con văn bản Phật Tổ Nguyên Lưu để kế thừaTổ mạch, với kỳ vọng Tổ Đạo nhờ đó mà được trùng hưng, sự truyền thừa này sẽ bất tận.”

Bây giờ chúng tôi xin giới thiệu Phật Tổ Đạo Ảnh Bạch Thoại Giải (Chân Dung Các Vị Tổ Phật Giáo Giải Thích Bằng Bạch Thoại). Đây là công trình do Hòa Thượng giảng giải trong mười ba năm, trải dài từ năm 1972 đến năm 1985, tổng cộng 346 tiêu đề. Những nhân vật quan trọng được giới thiệu trong này như sau: Từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, sau khi “niêm hoa vi tiếu”, giơ cánh hoa trên tay và mỉm cười truyền pháp cho Tôn Giả Ca Diếp; rồi Tôn Giả Ca Diếp truyền cho Nhị Tổ là Tôn Giả A Nan, và tiếp tục như vậy cho đến vị tổ thứ hai mươi tám là Thiền Sư Bồ Đề Đạt Ma, mới là người chính thức mang pháp Thiền sang nước Trung Hoa và trở thành Sơ Tổ ở đất nước này (Đông Độ Sơ Tổ).

Thật ra, việc Hòa Thượng giảng thuật bộ sách Phật Tổ Đạo Ảnh là do một đại nhân duyên. Vào năm 1958, Lão Hòa Thượng Hư Vân gởi bộ sách này cho Hòa Thượng [Tuyên Hóa] cùng với bức thư trong đó nói rằng:

Hòa Thượng có lời thệ nguyện rằng: “Chỉ cần tôi còn một hơi thở, thì tôi còn giảng kinh thuyết pháp!”; cho nên, Hòa Thượng trước thuật rất nhiều. Thêm vào đó, Hòa Thượng còn nguyện “; điều này có thể nói là công đức vô lượng vô biên.Trước mắt, Tổng Hội Pháp Giới Phật Giáo đã phiên dịch được hơn một trăm bộ kinh Phật và sách khai thị. Sau khi Hòa Thượng viên tịch, công tác phiên dịch kinh điển không hề bị gián đoạn, chư đệ tử của Ngài vẫn tiếp tục lãnh đạo chúng sanh, dẫn dắt họ từ trong bóng đêm tăm tối đến nơi quang minh sáng sủa, từ bờ bên này sang đến cứu cánh Niết Bàn ở bờ bên kia !

Thủy Kính Hồi Thiên Lục

Suốt cuộc đời, Hòa Thượng dùng Sáu Đại Tông Chỉ: để giáo hóa chúng sanh (thật ra đây chính là Năm Giới). Nhiều Phật tử không xem trọng những tông chỉ này, cho rằng ngay cả đứa trẻ lên ba cũng có thể nói ra được. Như vậy còn cần nói thêm gì nữa ? Tuy nhiên, tôi không biết Hòa Thượng đã nói bao nhiêu lần:

Phải chăng Lão Tử từng nói:

Tranh là tâm hơn thua, Đi ngược lại với Đạo, Tâm sanh ra bốn tướng, Làm sao được Tam muội.? Việc việc buông thì dễ, Tánh nóng khó sửa đổi. Thật sự không nóng giận, Tức có ngọc vô giá. Lại không buộc lỗi người, Mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Phiền não không khởi nữa, Sân hận không kiếm ta. Thường luôn tìm lỗi người, Khổ mình không thể dứt.

Lão Tử còn nói:

Không bàn luận lỗi người, Lỗi người là lỗi mình, Hết thảy là khảo nghiệm, Coi thử mình ra sao, Đối cảnh lầm không biết, Phải luyện lại từ đầu.

Hòa Thượng cũng từng nói:

Tu hành, về căn bản thì rất đơn giản: “Đạo có sẵn ngay đó, đừng tìm cầu đâu xa.”Nhưng người ta luôn luôn tìm con đường tắt; họ chạy loanh quanh tìm “mật pháp” để tu hành. Điều này thật sự làm chocon người càng hồ đồ thêm. Chúng ta không nhận thức được rằng “sự bí mật nằm ngay bên cạnh chúng ta” hay sao? Nó nằm ngay trong việc theo đuổi dục vọng vật chất và chấp trước của tâmphân biệt; nó nằm ngay ở sự chế ngự nóng giận và từ chối nói dối. Đó là những “mật pháp” tức khắc; đó là Đạo!

TÓM LẠI.

Ngoài Sáu Đại Tông Chỉ, Hòa Thượng còn có hai bài thơ đáng được chúng ta tín thọ và phụng hành. Đó là:

Trong sách và các thánh nhân đã dạy chúng ta rằng: Sự hướng dẫn của Hòa Thượngcũng là quay trở lại và tìm trong chính mình.

Theo tôi biết, chưa có vị Thầy nào tự đánh mình vì đệ tử không hiếu thuận. Điều này thật vô cùng đau lòng. Hòa Thượng đã áp dụng đạo lý “lỗi người là lỗi mình; đồng thể tức Đại Bi”, có thể nhìn là thấy ngay. Điều này đã được mô tả trong Phẩm 25 của Kinh Hoa Nghiêm:

Một ngày mùa đông tháng 2 tại Đức quốc.

Khai thị 1,2,3,4,5,6.

Vạn Phật Thánh Thành website: http://www.chuavanphat.org

Bài Thứ 8: Tụng Kinh, Trì Chú, Niệm Phật

Khóa I: NHÂN THỪA PHẬT GIÁO

Bài thứ 8: TỤNG KINH, TRÌ CHÚ,NIỆM PHẬT

A. MỞ ĐỀ

Người Phật tử, nếu chỉ thờ, lạy và cúng Phật, thì cũng chưa có thể được gọi là thuần thành. Người Phật tử thuần thành còn phải tụng kinh, trì chú và niệm Phật. Vả lại nếu bỏ qua ba phần sau này, thì ba phần trước là thờ, lạy và cúng khó có thể viên dung cả Sự và Lý được. Vì phần Lý là phần cao siêu khó thực hành, mà nếu chúng ta không tụng kinh, niệm Phật để cho tâm hồn được sáng suốt, tỏ ngộ các lý lẽ sâu xa huyền diệu trong kinh điển, thì chúng ta không làm thế nào để đạt được 4 phép lạy thuộc về Lý là: Phát trí thanh tịnh lễ, biến nhập pháp giới lễ, chánh quán lễ, thật tướng bình đẳng lễ và 5 món diệu hương để cúng Phật là: Giới hương, Ðịnh hương, Huệ hương, Giải thoát hương, Giải thoát tri kiến hương. Và nếu không thực hành được 4 phép lạy về Lý và cúng dường được 5 món diệu hương, thì sự lạy và cúng chỉ là phần “Sự” là phần hình thức, và vì thế, kẻ tín đồ khó có thể tiến được trên đường đạo. Bởi vậy, cùng một lần với thờ, lạy và cúng Phật, chúng ta phải tụng kinh, trì chú và niệm Phật. Ðó là những điểm căn bản tối thiểu mà một Phật tử thuần thành không thể bỏ qua được.

I. ÐỊNH NGHĨA

1. Tụng kinh: Tụng là đọc thành tiếng một cách có âm điệu và thành kính. Tụng kinh là đọc một cách thành kính những lời đức Phật đã dạy trong kinh điển, hợp với chân lý và căn cơ của chúng sinh.

2. Trì chú: Trì là nắm giữ một cách chắc chắn. Chú là lời bí mật của chư Phật mà chỉ có chư Phật mới hiểu được, chứ các hàng Bồ tát cũng không hiểu thấu. Các bài chú đều có oai thần và công đức không thể nghĩ bàn, dứt trừ được nghiệp chướng, tiêu tai giải nạn và tăng trưởng phước huệ, nên cũng gọi là thần chú.

3. Niệm Phật: Niệm là tưởng nhớ. Niệm Phật là tưởng nhớ danh hiệu Phật, hình dung Phật và đức hạnh của Phật, để luôn luôn cố gắng noi theo bước chân Ngài.

II. LÝ DO PHẢI TỤNG KINH – TRÌ CHÚ – NIỆM PHẬT

1. Vì sao phải tụng kinh?

Chúng ta sống trong cõi dục, cho nên lòng dục vọng của chúng ta không bao giờ ngừng nghỉ, cho đến trong giấc ngủ, cũng còn chiêm bao cãi lẫy, cười khóc, vui buồn như lúc thức. Trong cảnh mê mờ đầy dục vọng ấy, may thay, đức Phật vì đã thương xót chúng sinh mà truyền dạy những lời vàng ngọc, có thể phá tan màng mây u ám của vô minh và tội lỗi. Nhưng những lời lẽ cao siêu ấy, chúng ta nghe qua một lần , hai lần cũng không thể hiểu thấu và nhớ hết được. Cho nên chúng ta cần phải đọc đi đọc lại mãi, để cho lý nghĩa thâm huyền được tỏa ra, và ghi khắc trong thâm tâm chúng ta, không bao giờ quên được. Ðó là lý do khiến chúng ta phải tụng kinh.

2. Vì sao phải trì chú?

Chú có công năng phi thường, nếu người thành tâm trì chú, thì được nhiều hiệu lực không thể tưởng tượng. Chẳng hạn thần chú “Bạt nhứt thế nghiệp chướng căn bổn đắc sinh Tịnh độ đà-la-ni” có hiệu lực tiêu trừ được hết gốc rễ nghiệp chướng, làm cho người được vãng sinh về Tịnh độ. Thần chú “Tiêu tai kiết tường” có hiệu lực làm cho tiêu trừ các hoạn nạn, tai chướng, được gặp những điều lành. Thần chú “Lăng Nghiêm” thì phá trừ được những ma chướng và nghiệp báo nặng nề v.v… Thần chú “Chuẩn Ðề” trừ tà, diệt quỷ. Thần chú “Thất Phật diệt tội” có công năng tiêu trừ tội chướng của chúng ta từ nhiều đời nhiều kiếp v.v… Vì thế nên chúng ta phải trì chú.

3. Vì sao phải niệm Phật?

Tâm chúng ta bị vô minh làm mờ đục, chẳng khác gì nước bị bùn nhơ làm ngầu đục. Muốn cho nước đục kia hóa ra trong, không có phương pháp nào hay hơn là gia một chút phèn vào, thì các chất dơ bẩn ngầu đục kia dần dần lắng xuống, bấy giờ nước đục trở nên trong sạch.

Phương pháp niệm Phật cũng vậy, có công năng trừ phá các vọng niệm đen tối ở nơi tâm của chúng ta, làm cho tâm mê muội, mờ ám trở nên sáng suốt, chẳng khác gì chất phèn làm cho nước trở nên trong vậy.

Vì sao niệm Phật lại làm cho tâm mê muội trở nên trong sáng?

Vì lý do rất dễ hiểu sau đây:

Tâm chúng ta rất điên đảo, không bao giờ dừng nghỉ. Kinh thường nói: “Tâm viên, ý mã”, nghĩa là “tâm” lăng xăng như con vượn nhảy từ cành nầy qua cành khác, và “ý” như con ngựa chạy lung tung luôn ngày suốt buổi. Làm sao cho tâm ý chúng ta đừng nghĩ xằng bậy? Chỉ có một cách là bắt nó nghĩ những điều tốt lành, hay đẹp. Niệm Phật chính là nhớ nghĩ đến những vị hoàn toàn tốt đẹp, những hành động trong sáng, những đức tánh thuần lương. Càng niệm Phật nhiều chừng nào, thì ít niệm ma chừng ấy. Ma ở đây là tất cả những gì xấu xa đen tối, làm hại mình hại người. Vì thế chúng ta nên luôn luôn niệm Phật.

III. PHẢI THƯỜNG TỤNG NHỮNG BỘ KINH NÀO, TRÌ CHÚ GÌ VÀ NIỆM DANH HIỆU PHẬT NÀO?

1. Các kinh thường tụng.

Phàm là kinh Phật thì bộ nào tụng cũng được cả, vì kinh nào cũng có công năng thù thắng là phá trừ mê mờ, khai mở tâm trí sáng suốt cho chúng sinh, nếu chúng ta chí thành đọc tụng.

Nhưng vì căn cơ của chúng ta không đến, nên chúng ta phải lựa những bộ kinh nào thích hợp với căn cơ và sở nguyện của chúng ta mà đọc tụng.

Thông thường, các Phật tử Việt Nam, từ xuất gia cho đến tại gia đều trì tụng những kinh như: Di Ðà, Hồng Danh, Vu Lan, Phổ Môn, Dược Sư, Ðịa Tạng, Kim Cang, Lăng Nghiêm, Pháp Hoa v.v…

Nhiều người có quan niệm, chọn bộ kinh cho thích hợp với mỗi hoàn cảnh, mỗi trường hợp để tụng, như lúc:

a) Cầu siêu thì tụng kinh Di Ðà, Ðịa Tạng, Vu Lan v.v…;

b) Cầu an thì tụng kinh Phổ Môn, Dược Sư v.v…;

c) Cầu tiêu tai và giải bịnh thì tụng kinh Kim Cang, Lăng Nghiêm v.v…;

d) Cầu sám hối thì tụng Hồng Danh.

Cái quan niệm lựa chọn như thế cũng có phần hay là làm cho tâm chuyên nhất sẽ được hiệu nghiệm hơn. Nhưng chúng ta không nên quên rằng về mặt giáo lý cũng như về mặt công đức, bất luận một bộ kinh nào, nếu chí tâm trì tụng, thì kết quả cũng đều mỹ mãn như nhau cả.

2. Các chú thường trì.

Ở chùa, chư Tăng hằng ngày, trong thời khóa tụng khuya, trì chú Lăng Nghiêm, Ðại Bi, Thập chú hay Ngũ bộ chú v.v… Còn ở nhà, phần nhiều cư sĩ trì chú Ðại Bi và Thập chú, bởi hai lẽ: một là thời giờ ít ỏi, vì còn phải lo sinh sống cho gia đình; hai là chú Lăng Nghiêm đã dài, lại thêm chữ âm vận, trắc trở khó đọc, khó thuộc. Nhưng nếu cư sĩ nào có thể học hết các thần chú, trì tụng được như chư Tăng thì càng tốt.

3. Các hiệu Phật thường niệm.

Ðức Phật nào cũng đủ cả 10 hiệu, đồng một tâm toàn giác, từ bi vô lượng, phước trí vô biên, thương chúng sinh vô cùng vô tận, nên chỉ niệm danh hiệu một đức Phật nào cũng đều được cảm ứng đến tất cả chư Phật, công đức cũng đều vô lượng vô biên.

Nhưng đứng về phương diện trình độ và hoàn cảnh mà luận, thì hiện nay, chúng ta là người ở thế giới Ta-bà, nhằm quốc độ của đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni giáo hóa, lẽ cố nhiên chúng ta phải niệm danh hiệu của Ngài. Dụ như dân chúng ở trong nước nào, phải nhớ nghĩ đến ơn nhà cầm quyền chính trị sáng suốt ở trong nước đó.

Nếu tín đồ nào tu theo pháp môn Tịnh độ, thì thường ngày phải niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Ðà. Pháp môn này được thành lập do lời dạy sau đây của đức Phật Thích-Ca: “Ở cõi thế giới Ta-bà này, đến thời kỳ mạt pháp, cách Phật lâu xa, chỉ có pháp “Trì danh niệm Phật”, cầu vãng sinh về Tây phương cực lạc là quốc độ của đức Phật A Di Ðà, thì dễ tu dễ chứng hơn hết”.

Ngoài ra, cũng có người niệm danh hiệu đức Phật Di Lặc, để cầu sinh về cõi trời Ðâu-Suất; hoặc niệm danh hiệu đức Phật Dược Sư, để cầu cho khỏi tật bịnh.

Tóm lại, tín đồ phải niệm đủ Tam thế Phật:

a) Niệm đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni, là niệm đức Phật hiện tại, mà cũng là đức Phật giáo chủ của chúng ta.

b) Niệm đức Phật A Di Ðà, là niệm đức Phật đã thành từ quá khứ xa xưa, mà cũng là đức Phật tiếp dẫn chúng ta về Cực lạc.

c) Niệm đức Phật Di Lặc, là niệm đức Phật vị lai.

1. Lợi ích của sự tụng kinh.

Những lời giáo hóa trong ba tạng kinh điển của Phật, đều toàn là những lời hiền lành, sáng suốt do lòng từ bi và trí tuệ siêu phàm của Phật nói ra. Kinh Phật, vì thế, có phần siêu việt hơn tất cả những lời lẽ của thế gian. Nếu chúng ta chí tâm trì tụng, chắc chắn sẽ được nhiều lợi ích cho mình, cho gia đình và những người chung quanh:

a) Cho mình: Lúc tụng niệm, hành giả đem hết tâm trí chí thành đặt vào văn kinh để khỏi sơ suất, nên sáu căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đều thâu nhiếp lại một chỗ. Chăm lo tụng kinh, nên ba nghiệp của thân, khẩu, ý không còn móng khởi lên mười điều ác nữa, mà chỉ ghi nhớ những lời hay, lẽ phải.

b) Cho gia đình: Trước khi sắp sửa tụng kinh, những người trong nhà đều dứt các câu chuyện ngoài đời và khách hàng xóm đến ngồi lê đôi mách cũng tự giải tán. Trong gia đình nhờ thế được thanh tịnh, trang nghiêm, hòa thuận.

c) Cho người chung quanh: Trong những lúc đêm thanh canh vắng, lời tụng kinh trầm bổng theo với tiếng mõ nhịp đều, tiếng chuông ngân nga, có thể đánh thức người đời ra khỏi giấc mê, đưa lọt vào tai kẻ lạc lối những ý nghĩa thâm huyền, những lời khuyên dạy bổ ích, chứa đựng trong kinh điển mà hành giả đang tụng.

Như vậy rõ ràng tụng kinh chẳng những có lợi ích cho mình, cho gia đình, mà còn cho những người chung quanh nữa. Ðó là mới nói những điều ích lợi thông thường có thể thấy được, ngoài ra tụng kinh còn có những điều lợi ích, linh nghiệm lạ thường, không thể giải thích được, ai tụng sẽ tự chứng nghiệm mà thôi.

2. Lợi ích của sự trì chú.

Các thần chú tuy không thể giải nghĩa ra được, nhưng người chí tâm thọ trì, sẽ được công hiệu thật là kỳ diệu, khó có thể nghĩ bàn, như người uống nước ấm, lạnh thì tự biết lấy.

Có thể nói: Một câu thần chú, thâu gồm hết một bộ kinh, vì vậy, hiệu lực của các thần chú rất phi thường. Khi gặp tai nạn, nếu thực tâm trì chú, thì mau được giải nguy. Như thuở xưa, Ngài A-Nan mắc nạn, Ðức Phật liền nói thần chú Lăng Nghiêm, sai ngài Văn-Thù Sư-Lợi đến cứu, thì Ngài A-Nan liền được thoát nguy.

Ngày nay có nhiều trường hợp mà người thành tâm niệm chú thấy được hiệu nghiệm rõ ràng. Theo lời bác sĩ Thiện Thành nói lại, thì vào năm 1946, giữa lúc loạn ly, bác sĩ ở trong một vùng rừng sâu, núi hiểm tại Trung Việt. Một lần bác sĩ bị một chứng bịnh nan y, mặc dù lương dược Ðông, Tây sẵn có trong tay, cũng không làm sao trị được. Bác sĩ tưởng sẽ bỏ mình trong xóm người sơn cước, không ngờ lúc còn ở dưới mái nhà cha mẹ, thường đêm nghe thân phụ trì chú “Công Ðức Bảo Sơn”, bác sĩ liền đem thần chú ấy ra áp dụng. Trong lúc ấy, các người nuôi bịnh cũng xúm lại hộ niệm cho bác sĩ suốt đêm. Sáng hôm sau, quả thật bác sĩ lành mạnh trở lại một cách dễ dàng, làm cho tất cả các bạn đồng nghiệp đều ngạc nhiên.

3. Lợi ích của sự niệm Phật.

Niệm Phật công đức lại còn to lớn hơn nữa, vì một câu niệm Phật có thể gồm thâu cả 3 tạng kinh điển, hết thảy thần chú, cùng là các pháp viên đốn, như tham thiền, quán tưởng v.v…

Ðức Phật Thích-Ca Mâu-Ni có dạy rằng: “Sau khi Phật nhập diệt, về thời kỳ mạt pháp, đến kiếp hoại, các kinh sẽ bị tiêu diệt hết, chỉ còn kinh Di Ðà lưu truyền lại độ trăm năm rồi cũng diệt luôn. Lúc bấy giờ chỉ còn một câu niệm Phật gồm 6 chữ “Nam mô A Di Ðà Phật”, mà đủ năng lực đưa chúng sinh về cõi Cực lạc”.

Lời Phật nói không sai, bằng chứng là có nhiều nhân vật chuyên trì một câu niệm Phật, mà biết được ngày giờ và thấy được điềm lành trước khi vãng sinh. Như ngài Tổ Huệ Viễn, trong mười năm niệm Phật, ba lần thấy đức A-Di Ðà rờ đầu; trong hội Liên xã, có 123 người chuyên tu phép “Trì danh niệm Phật”, đều lần lượt được Phật rước về cõi Tịnh độ. Gần đây ở Nam phần Việt Nam, vào năm 1940, có 3 vị sĩ quan Pháp là đại úy Touffan, trung úy Retourna, thiếu úy Brillant đồng lái một chiếc thủy phi cơ bay từ đảo Côn Lôn về Sài Gòn. Giữa đường, chiếc phi cơ hư, rơi xuống biển. Thiếu úy Brillant (người Pháp lai Việt) niệm Phật cầu cứu. Chiếc thủy phi cơ lững đững trên mặt biển suốt ba giờ đồng hồ, mới gặp một chiếc tàu đánh cá của người Nhật đến cứu. Khi ba vị sĩ quan vừa bước sang tàu, thì chiếc thủy phi cơ chìm ngay xuống biển. Ai nấy đều lấy làm lạ, hỏi nhau: Tại sao khi nãy có 3 người ngồi nặng, phi cơ lại nổi, mà bây giờ không có người nó lại chìm ngấm? Chỉ có thiếu úy Brillant mới giải thích được sự lạ lùng ấy. Ông kể lại cho mọi người nghe sự linh ứng của pháp niệm Phật mà ông thường áp dụng, và lần nầy là lần thứ hai ông được thoát nạn nhờ phép niệm Phật ấy. Ðại úy Touffan và trung úy Retourna hết lòng tin tưởng, nên khi về đến Sài Gòn, hai vị sĩ quan ấy chung nhau một số tiền, cất một cái am đẹp đẽ ở Cát Lái, làng Thạnh Mỹ Lợi, tỉnh Gia Ðịnh để thờ Phật gọi là tỏ lòng tri ân. Ðây chỉ là một câu chuyện trong muôn ngàn câu chuyện về sự lợi ích của phép niệm Phật.

C. KẾT LUẬN

Nhưng các Phật tử nên nhớ, khi miệng tụng kinh, trì chú, niệm Phật, tay gõ mõ, đánh chuông, lần chuỗi, thì tâm trí phải gội rửa hết bao ý nghĩ bất chính, những ham muốn đê hèn, và đặt vào đấy hình ảnh của đấng từ bi. Rồi phải noi gương Ngài, mở lòng thương rộng lớn, nghĩ đến nỗi thống khổ của muôn loài và phát nguyện đem sức mình ra, ban vui cứu khổ cho tất cả. Ðến khi thôi tụng niệm, trở lại tiếp xúc việc đời, thì phải làm thế nào cho những hành động của mình cũng được từ bi như tư tưởng và lời nói của mình vậy.

Người tụng kinh trì chú và niệm Phật, làm đúng như thế, thì chắc chắn sẽ được chứng quả thánh không sai.

Những Điều Phật Tử Cần Biết Khi Tụng Kinh

Tụng kinh là đọc một cách thành kính những lời đức Phật đã dạy trong kinh điển, hợp với chân lý và căn cơ của chúng sinh. Đồng thời để cho tâm và khẩu được hợp nhất vào câu kinh, tiếng Pháp của Phật.

Nên tụng những bộ kinh nào

Theo giáo lý đạo Phật thì tụng kinh là để cầu an và cầu siêu. Do đó, tụng bộ kinh nào cũng được vì kinh Phật nào cũng có tác dụng phá trừ mê mờ, khai mở tâm trí sáng suốt cho chúng sinh, nếu chúng ta chí thành đọc tụng.

Nhưng vì căn cơ của chúng sinh không đều nên chúng ta phải lựa những bộ kinh nào thích hợp với căn cơ và sở nguyện của mình mà tụng đọc.

Thông thường, ở nước ta từ xuất gia cho đến tại gia đều trì tụng những kinh như: Di Đà, Hồng Danh, Vu Lan, Phổ Môn, Dược Sư, Địa Tạng, Kim Cang, Lăng Nghiêm, Pháp hoa…

Tuy nhiên nhiều người lại có quan niệm chọn bộ kinh cho thích hợp với mỗi hoàn cảnh, mỗi trường hợp để tụng như: cầu siêu thì tụng kinh Di Đà, Vu lan… cầu an thì tụng kinh Phổ Môn, Dược Sư… cầu sám hối thì tụng kinh Lương Hoàng Sám, Thủy Sám…

Các quan niệm chọn lựa như thế có phần hay là làm cho tâm chuyên nhất, sẽ được hiệu nghiệm hơn. Nhưng chúng ta không nên quên về mặt giáo lý cũng như về mặt công đức, bất luận một bộ kinh nào, nếu chí tâm trì tụng thì kết quả đều được viên mãn như nhau.

Như thế, tụng kinh nào cũng có lợi ích nhưng điều quan trọng nhất là phải thể nhập được những nghĩa lý trong kinh mà ứng dụng thực hành mới có kết quả. Ngược lại, tụng kinh mà không phá trừ kiêu mạn, thực hành hạnh khiêm cung thì mất rất nhiều công đức.

Mùa Vu Lan báo hiếu, Phật tử tụng kinh Vu Lan để cầu siêu

Tụng kinh ở chùa hay ở nhà tốt hơn?

Mục đích tụng kinh là một phương pháp tu nhằm ôn lại lời Phật dạy, đồng thời để ba nghiệp được thanh tịnh và tụng kinh cũng rất có phước báu, gọi là “minh Phật chi lý” hiểu rõ chân lý của Đức Phật dạy gì trong kinh sau đó áp dụng tu tập theo lời dạy của Phật.

Tụng kinh ở nhà hay ở chùa cũng tốt cả. Tuy nhiên tụng kinh ở chùa sẽ có nhiều ý nghĩa hơn. Bởi lẽ ở chùa có sự trang nghiêm, yên tịnh. Khi đọc kinh dễ chú tâm, không bị ngoại cảnh chi phối. Nhờ vậy mà tam nghiệp thanh tịnh, mắt chỉ đọc kinh, thân ngồi trang nghiêm và ý nghĩ lời Phật dạy. Theo đó, sẽ làm cho Tâm Bồ Đề của việc tụng kinh không có thối chuyển.

Khi tụng kinh ở chùa nếu có những chỗ không hiểu thì có chư Tăng giảng giải cho hiểu hơn. Nhưng điều quan trọng nhất là việc tụng kinh ở nhà sẽ thiếu một trong ba hình tướng Tam Bảo đó là Tăng (ở nhà chỉ có Phật, Pháp – PV). Do đó sẽ không có ai dẫn đường chỉ lối để mình tu hành.

Mặt khác, về chùa tụng kinh có chư Tăng, có đông Phật tử tụng kinh trầm hùng, tác động mạnh vào tâm thức của mình, làm cho sức mạnh tâm linh vững mạnh, cảm thấy niềm an lạc và tuyệt nhiên sẽ không có hôn trầm, không có giải đãi.

Tụng kinh như nào cho đúng?

Mục đích của việc tụng kinh là để chúng ta tìm hiểu nghĩa lý trong kinh qua những lời Phật dạy và đem ra áp dụng hành trì trong đời sống hằng ngày.

Cứ 19h tối, các chư Tăng trong chùa lên chùa tụng kinh

Bởi những lời Phật dạy nghĩa lý rất thâm sâu vi diệu, đọc qua một đôi lần không thể nào chúng ta hiểu rõ được. Do đó, khi tụng kinh, chúng ta phải hết lòng thành kính. Phải có tâm tha thiết trân quý những lời Phật dạy.

“Trước khi tụng niệm nên rửa tay, súc miệng cho sạch sẽ và y phục phải nghiêm trang. Khi ngồi, đứng phải giữ thân cho đoan chính. Lúc lạy hay quỳ phải giữ thân đoan nghiêm. Miệng tụng đọc âm thanh vừa đủ nghe” – theo lời Phật dạy.

Thời khóa tụng kinh, thông thường là có hai thời cố định. Thời khuya, thường tụng chú Lăng Nghiêm và Đại bi thập chú. Còn buổi tối là tụng Kinh Di Đà.

Đối với phần nghi thức tụng kinh, trong mỗi quyển kinh ở phần đầu trước khi vào phần kinh văn, đều có chỉ dẫn phần nghi thức. Phật tử có thể y theo đó mà hành trì.

Những lời giáo hóa trong ba tạng kinh điển của Phật đều là những lời sáng suốt do lòng từ bi và trí tuệ của Đức Phật nói ra. Nếu chúng ta chí tâm trì tụng, sẽ được nhiều lợi ích cho mình, cho gia đình và những người xung quanh. Đồng thời, ôn lại những lời Phật dạy làm phương châm đời sống hàng ngày để cho chúng ta có thể sống hạnh phúc và an lạc hơn.

Bạn đang xem bài viết Kinh Nhật Tụng: Vạn Phật Thánh Thành trên website Iseeacademy.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!