Cập nhật thông tin chi tiết về Lễ Vía Quan Thánh Đế Quân Tại Miếu Quan Đế (Quận Bình Tân) mới nhất trên website Iseeacademy.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Sáng ngày 24-7-2011 (nhằm ngày 24 tháng 6 âm lịch), Ban trị sự miếu Quan Đế quận Bình Tân đã long trọng tổ chức lễ vía Ông với nhiều hoạt động thu hút khá đông bà con người Hoa, người Việt và khách thập phương.
Cùng tham dự lễ có đại diện Ban Công tác người Hoa Thành phố, lãnh đạo Ban Dân vận, Mặt trận Tổ quốc Quận Bình Tân; lãnh đạo chính quyền và Mặt trận Tổ quốc Phường An Lạc; tập thề Ban trị sự Miếu và bà con, du khách,…
Lễ vía Quan Thánh Đế Quân là một hoạt động tín ngưỡng dân gian của đồng bào người Hoa thành phố, đã xuất hiện ngoài 300 năm, được hình thành và gắn liền với quá trình di dân của người Hoa đến định cư ở Việt Nam.
Quan Thánh Đế Quân là nhân vật có thật vào thời Tam Quốc ở Trung Quốc, tên là Quan Vũ, tự là Vân Trường, Ông sinh năm 162, mất năm 220. Hình tượng Quan Công biểu trưng cho tính cao thượng của người quân tử. Trong hoạt động kinh tế cần giữ chữ tín với đối tác và khách hàng, do đó tính cách tín nghĩa của Quan Công được đưa ra như một tấm gương để mọi người noi theo và đồng thời cũng là một vị thần mà mọi người mong muốn Ông phù hộ cho việc kinh doanh phát đạt, buôn may bán đắt.
Tại thành phố Hồ Chí Minh có hơn 15 ngôi miếu có thờ Ông. Trong ngày hôm nay, nhiều Hội quán, Miếu thờ đã tổ chức lễ vía ông với nhiều hoạt động truyền thống như hát cổ nhạc, đấu thánh đèn, múa lân, thu hút đông đảo bà con người Hoa, người Việt và du khách thập phương đến thắp hương và tham dự lễ hội.
K. Thành
(Tin / Ảnh)
Văn Khấn Cúng Lễ Ở Đình, Đền, Chùa, Miếu, Phủ
Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo
Hướng dẫn trình tự lễ tại đình, đền chùa và miếu phủ như sau
1. Dâng lễ
– Theo lệ thường, người ta lễ thần Thổ địa, thủ Đền trước, gọi là lễ trình vì đó là lễ cáo Thần linh Thổ Địa nơi mình đến dâng lễ. Người thực hành tín ngưỡng cao lễ Thần linh cho phép được tiến hành lễ tại Đình, Đền, Miếu, Phủ.
– Sau đó người ta sửa sang lễ vật một lần nữa. Mỗi lễ đều được sắp bày ra các mâm và khay chuyên dùng vào việc cúng lễ tại Đình, Đền, Miếu, Phủ.
– Kế đến là đặt lễ vào các ban. Khi dâng lễ phải kính cẩn dùng hai tay dâng lễ vật, đặt cẩn trọng lên bàn thờ. Cần đặt lễ vật lên ban chính trở ra ban ngoài cùng.
– Chỉ sau khi đã đặt xong lễ vật lên các ban thì mới được thắp hương.
– Khi làm lễ, cần phải lễ từ ban thờ chính đến ban ngoài cùng. Thường lễ ban cuối cùng là ban thờ cô thờ cậu.
a. Thứ tự khi thắp hương:
– Thắp từ trong ra ngoài – Ban thờ chính của điện được đặt theo hàng dọc, ở gian giữa được thắp hương trước. – Các ban thờ hai bên được thắp hương sau khi đã thắp xong hương ban chính ở gian giữa. – Khi thắp hương cần dùng số lẻ: 1, 3, 5, 7 nén. Thường thì 3 nén. – Sau khi hương được châm lửa thì dùng hai tay dâng hương lên ngang trán, vái ba vái rồi dùng cả hai tay kính cẩn cắm hương vào bình trên ban thờ. – Nếu có sớ tấu trình thì kẹp sớ vào giữa bàn tay hoặc đặt lên một cái đĩa nhỏ, hai tay nâng đĩa sớ lên ngang mày rồi vái 3 lần. – Trước khi khấn thường có thỉnh chuông. Thỉnh ba hồi chuông. Thỉnh chuông xong thì mới khấn lễ.
b. Văn khấn:
– Khi tiến hành lễ dâng hương bạn có thể đọc văn khấn, sớ trình trước các ban, hoặc chỉ cần đặt văn khấn, sớ trình lên một cái đĩa nhỏ, rồi đặt vào mâm lễ dângcúng cũng được. – Khi hoá vàng thì phải hoá văn khấn và sớ trước.
2. Hạ lễ:
Sau khi kết thúc khấn, lễ ở các ban thờ, thì trong khi đợi hết một tuần nhang có thể viếng thăm phong cảnh nơi thừa tự, thờ tự.
Khi thắp hết một tuần nhang có thể thắp thêm một tuần nhang nữa. Thắp nhang xong, vái 3 vái trước mỗi ban thờ rồi hạ tiền, vàng… (đồ mã) đem ra nơi hoá vàng để hoá. Khi hoá tiền, vàng… cần hoá từng lễ một, từ lễ cảu ban thờ chính cho tới cuối cùng là lễ tiền vàng… ở ban thờ Cô thờ cậu.
Hoá tiền vàng xong mới hạ lễ dâng cúng khác. Khi hạ lễ thì hạ từ ban ngoài cùng vào đến ban chính. Riêng các đồ lễ ở bàn thờ Cô, thờ Cậu như gương, lược… thì để nguyên trên bàn thờ hoặc giả nơi đặt bàn thờ này có nơi để riêng thì nên gom vào đó mà không đem về.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Mình tuổi mão nè gặp rất nhiều khó khăn trong cs và trong cv nè k có ngày nào là k gặp khó khăn cả
Chi Tiết Lễ Cúng Rằm Tháng Giêng Cầu Bình An Cho Gia Đình
Theo Đại đức Thích Thanh Phương, Tết Nguyên Tiêu có nghĩa là đêm rằm đầu tiên của năm mới. “Nguyên” là thứ nhất, “tiêu” là đêm. Tết Nguyên Tiêu còn gọi là Tết Thượng Nguyên, bởi còn có Tết Trung Nguyên (rằm tháng Bảy) và Tết Hạ Nguyên (rằm tháng Mười). Đứng về khía cạnh văn hóa, rằm tháng Giêng là một lễ lớn theo tín ngưỡng Việt Nam. Là một nước thuần nông, tháng Giêng là tháng bắt đầu của những người nông dân chuẩn bị xuống đồng. Trước khi hạ điền, họ làm lễ để tỏ lòng nhớ ơn tổ tiên, để cầu cho mưa thuận gió hòa, mong một năm mùa màng bội thu.
Theo Phật giáo thì ngày mồng Một và ngày rằm hằng tháng được coi là ngày của Phật, các tín đồ đến ngày ấy phải đi lễ chùa. Rằm tháng Giêng là rằm đầu tiên, nhiều người tin rằng ngày ấy đức Phật giáng lâm tại các chùa để chứng độ lòng thành của Phật tử, lại thêm cái không khí vui xuân còn đậm đà cho nên số người đi chùa đông đảo hơn. Bởi vậy mới nói: “Lễ Phật quanh năm không bằng rằm tháng Giêng”. Đây còn là ngày vía thiên quan, người ta đến chùa nhương sao để xin giải trừ tai ách. Còn theo Nho học thì xưa ngày này là Tết Trạng Nguyên. Nhân dịp trăng sáng đầu năm, nhà vua cho mở đại tiệc tại vườn thượng uyển, triệu các vị trạng nguyên đến dự hội, ngắm cảnh, xem hoa, làm thơ xướng họa, ca ngợi các vẻ đẹp thiên nhiên và ân đức nhà vua đã đem lại thái bình thịnh trị. Từ đó về sau, lễ hội Tết Nguyên Tiêu đã được lưu truyền rộng rãi trong dân. Trong dân gian với số đông người theo phong tục thờ cúng ông bà thì rằm tháng Giêng trước hết được hiểu một cách đơn giản là ngày rằm lớn. Tùy theo tín ngưỡng và ngành nghề, có gia đình lễ bái chư Phật, có gia đình cúng thổ công, thần tài hoặc cúng âm hồn các đẳng… Nhưng luôn có cúng gia tiên, bày tỏ lòng hiếu kính với ông bà, cha mẹ, cảm ơn trên đã phù hộ cho con cháu an lành, làm ăn khá giả. Số gia đình theo đạo Phật cúng chay và ăn chay. Lễ vật dâng cúng thường dùng rau quả, trầu cau, chè xôi, các món đậu, canh xào…
Với những ý nghĩa trọng đại đó, các chùa đồng loạt tổ chức lễ cúng rằm tháng Giêng nguyện cầu cho quốc thái dân an, xã hội an bình, nhà nhà an vui. Tại các chùa theo truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy thường kỷ niệm sự kiện trọng đại này bằng cách thọ hạnh đầu đà ngăn oai nghi nằm, thức trọn đêm; hoăc cúng đèn, hay cúng dường đặt bát đến chư Tăng cầu phúc đầu năm. Đối với Phật giáo Đại Thừa, các chùa trong những ngày Rằm đều tổ chức những nghi thức cầu an cho đại chúng, có chùa còn làm lễ Quy y, tạo điều kiện để những người có duyên với Phật giáo được chính thức công nhận và học tập theo những điều Phật dạy.
Nghi thức cúng tại gia
Ngoài việc tới chùa cầu bình an, may mắn, sức khỏe đầu năm trong dịp rằm tháng Giêng, người Việt cũng rất coi trọng lễ cúng tại nhà. Để đón rằm tháng Giêng, các gia đình thường sắm hai lễ: một là cúng Phật, thần linh và hai là lễ cúng gia tiên vào giờ Ngọ.
Cúng Phật: Là mâm lễ chay tinh khiết cùng hương hoa đèn nến.
Cúng gia tiên: Là mâm lễ mặn với các món ăn ngày tết đầy đủ, tinh khiết. Các vật phẩm khác như: Hương hoa vàng mã, đèn nến, trầu cau, rượu. Bánh trôi được nhiều gia đình dâng cúng rằm tháng Giêng để mong mọi việc trôi chảy, hạnh phúc tròn đầy.
Nếu là Phật tử thì có thể tới chùa hoặc ngồi trước bàn thờ Phật (tại gia) tụng kinh Phổ Môn hoặc kinh Dược Sư để cầu bình an cho gia đạo và đọc bài ca tụng công đức của Đức Phật như sau:
Tán Phật
“Phật thân rực rỡ tựa kim san
Thanh tịnh không gì thể sánh ngang
Vô Thượng Chí Tôn công đức mãn
Cúi đầu con lạy
Phật Sơn Vương.
Phật đức bao la như đại dương
Bảo châu tàng chứa đủ bên trong
Trí tuệ vô biên vô lượng đức
Đại định uy linh giác vẹn toàn.
Phật tại chân như pháp giới tàng
Không sắc không hình chẳng bụi mang”
Văn khấn Tết Nguyên Tiêu tại nhà
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần, 3 lạy)
Con lạy chín phương trời, mười phương chư phật, chư phật mười phương.
Con kính lạy Hoàng thiên Hậu thổ chư vị tôn thần.
Con kính lạy ngài bản cảnh Thành hoàng, ngài bản xứ Thổ địa, ngài bản gia Táo quân cùng chư vị tôn thần.
Con kính lạy Cao tằng Tổ khảo, Cao tằng Tổ tỉ, thúc bá đệ huynh, cô di, tỉ muội họ nội họ ngoại.
Tín chủ (chúng) con là:
………………………………………………………………
Ngụ tại:
………………………………………………………………
Hôm nay là ngày rằm tháng giêng năm… gặp tiết Nguyên tiêu, tín chủ con lòng thành, sửa sang hương đăng, sắm sanh lễ vật, dâng lên trước án.
Chúng con kính mời ngài bản cảnh Thành hoàng chư vị Đại vương, ngài bản xứ Thần linh Thổ địa, ngài bản gia Táo quân, Ngũ phương, Long mạch, Tài thần. Cúi xin các ngài linh thiêng nghe thấu lời mời, giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành thụ hưởng lễ vật.
Chúng con kính mời các các cụ Tổ khảo, Tổ tỉ, chư vị hương linh gia tiên nội ngoại họ………………. nghe lời khẩn cầu, kính mời của con cháu, giáng về chứng giám tâm thành, thụ hưởng lễ vật.
Tín chủ con lại kính mời ông bà Tiền chủ, Hậu chủ tại về hưởng lễ vật, chứng giám lòng thành phù hộ độ trì cho gia chung chúng con được vạn sự tôn lành. Bốn mùa không hạn ách, tám tiết hưởng an bình.
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần, 3 lạy).
Hiểu đúng về cúng sao giải hạn
Đại đức Thích Thanh Phương cho biết, cúng sao giải hạn không phải là một nghi thức Phật giáo mà nguyên thuỷ của nó từ Lão giáo ở Trung Hoa. Sao hạn được tính theo học thuyết ngũ hành xung khắc. Theo sự vận chuyển của ngũ hành, mỗi năm có một vì sao chiếu mạng hợp với tuổi của từng người. Còn hạn là ách nạn, là cách thức riêng ứng với sao chiếu mạng tốt hay xấu. Theo đó, có chín ngôi sao (có sách nói là bảy sao) phát sáng trên trời, đó là: Nhật Diệu, Nguyệt Diệu, Hỏa Diệu, Thủy Diệu, Mộc Diệu, Kim Diệu, Thổ Diệu, La Hầu và Kế Đô. Có sách thêm sao Thái Bạch nữa thành mười sao. Chín ngôi sao này còn gọi là Cửu Diệu, là các sao phối trí theo các phương, sắp xếp theo mười hai chi và ngũ hành. Hàng năm, mỗi tuổi chịu ảnh hưởng của một ngôi sao, gọi nôm na là sao “chiếu mạng”. Do đó, có năm gặp sao tốt, có năm gặp sao xấu. Sao La Hầu và Kế Đô là sao xấu, là loại ám hư tinh, vì hai sao này chẳng thấy được mặt trời. Tuy bắt nguồn từ Lão giáo ở Trung Hoa nhưng tập tục này lại ăn sâu vào quan niệm của người dân Việt, rồi dần dà theo thời gian trở thành một tập tục lâu đời của người Việt. Qua quá trình giao thoa văn hóa, không biết từ bao giờ, nó nghiễm nhiên trở thành tục lệ Phật giáo.
Theo quan điểm của Phật giáo, không có ngôi sao nào chiếu vào con người mà nhờ đó được phúc lợi hay mang tai họa, bởi vì tất cả đều do nhân quả của chính người ấy làm nên. Đức Phật dạy, không có quả nào từ trên trời rơi xuống, hoặc dưới đất hiện lên, mà đều do các hành động qua thân, khẩu và ý của con người tạo ra. Mọi sự thành công hay thất bại của mỗi người trong đời chẳng phải do ai ban phát cho, mà do những hành động hoặc lời nói đã tạo từ trước (nhân), cộng với các yếu tố trong hiện tại (duyên), khi nhân duyên đầy đủ thì lãnh thọ quả báo (quả). Tuy nhiên, cúng sao giải hạn là một trong những hình thức phương tiện các chùa Phật giáo vận dụng để đưa chúng sinh đến gần với Phật pháp. Khi vận dụng nghi thức cúng sao giải hạn của Lão giáo, các thầy chủ lễ không sử dụng nghi thức Lão giáo mà thay vào đó là tụng kinh, sử dụng các nghi thức của Phật giáo, để cho những ai chưa phải Phật tử được nghe lời kinh mà thức tỉnh. Những ai đã là Phật tử rồi, có dịp ôn lại lời kinh để việc học Phật, tu Phật càng vững chãi hơn, tinh tấn hơn. Hơn nữa, qua việc cúng bái đó, Tăng Ni có cơ hội tiếp cận, gần gũi và giúp đỡ quần chúng; khuyên họ làm lành lánh dữ, đi chùa tụng kinh lạy Phật, bố thí cúng dường… Tuy nhiên một số nơi khi cử hành nghi thức cúng sao hạn nặng nề, phiền phức, mang vẻ âm u huyền bí, làm mất sự trong sáng của nền tín ngưỡng Phật giáo và bản chất của phong tục. Chính điều đó đã biến phong tục ngày càng mang màu sắc mê tín trầm trọng, kèm theo những đánh giá không tốt về Phật giáo.
Việt Hà (ghi)
Miếu Quan Thánh (Quận Bình Tân) Mừng Vía Ông
Sáng ngày 31-07-2013 (nhằm ngày 24 tháng 6 âm lịch) là ngày vía mừng ngày sinh của Quan Thánh Đế Quân – vị thần tài bảo trợ cho việc kinh doanh buôn bán, vị thần bảo trợ cho việc học vấn, vị thần đa chức năng bảo hộ cho cuộc sống của người dân; vì thế hàng năm cứ đến ngày này, Ban quản trị, ban trị sự tại tất cả các Miếu có thờ Ông đều long trọng tổ chức lễ dâng hương để cầu Ông phù hộ cho quốc thái dân an, phong điều vũ thuận.
Năm 2013 là năm vừa tròn 20 năm ngày trùng tu của Miếu Quan Thánh và Trung tâm Hoa văn Trung Nghĩa (quận Bình Tân), các hoạt động phong phú chào mừng đã được Ban trị sự Miếu tổ chức long trọng, sau nghi thức dâng hương tại chính điện, đoàn diễu hành truyền thống trên đường phố tại địa phương để Ông ban phúc lành cho người dân đã được diễn ra rầm rộ với đội lân, kèn trống rộn ràng hộ tống thu hút đông đảo người dân đến tham dự và chia sẻ những điều may mắn do Ông ban tặng. Đặc biệt, khác với nghi thức rước thần thờ diễu hành thông thường, hoạt động diễu hành của miếu Quan Thánh sẽ do người thật hóa trang thay thế tượng thờ, tạo sự gần gũi và thân thiết hơn, nhờ đó mà sự giao thoa giữa thế giới tâm linh và thế giới hiện tại đã được rút ngắn tối đa.
Chính điện thờ Ông
Bà con dâng hương
Chuẩn bị lễ dâng hương
Múa lân mừng vía Ông
Tập thể Ban trị sự Miếu dâng hương tại chính điện
Tập thể Ban trị sự Miếu dâng hương tại chính điện
Làm lễ xin keo chuẩn bị diễu hành
Hóa trang thành Quan Thánh Đế Quân, Quan Bình và Châu Xương
Diễu hành
Tập thể Ban trị sự chụp hình lưu niệm trước cổng Miếu
TCM (Tin / Ảnh)
Bạn đang xem bài viết Lễ Vía Quan Thánh Đế Quân Tại Miếu Quan Đế (Quận Bình Tân) trên website Iseeacademy.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!