Cập nhật thông tin chi tiết về Lời Kêu Gọi Hùn Phước Xây Tháp Tứ Ân Thờ Xá Lợi Của Sư Bà Hải Triều Âm mới nhất trên website Iseeacademy.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Nguyên Hà trân trọng kính chào qúi thính giả,
Trong chương trình phát thanh
Global Saigon HD Radio (The first Vietnamese HD Radio in the world)
hôm nay của ngày đầu năm 2018, chúng tôi xin kính mời qúi thính giả cùng chia xẻ
Lời Kêu Gọi Hùn Phước Xây Tháp Tứ Ân
THỜ XÁ LỢI CỦA SƯ BÀ HẢI TRIỀU ÂM
Tại Chùa Hương Sen, Perris, CA, USA
Sẽ Khởi công vào năm 2018 (nhạc)
Kính Thưa qúi vị,
Trước hết kính mời qúi vị theo dõi phần tiểu sử của Sư Bà Hải Triều Âm.
Sư bà Hải Triều Âm (1920-2013)
Sư Bà Hải Triều Âm mang hai dòng máu Pháp-Việt, thế danh là Nguyễn Thị Ni, tên thế tục Pháp là Ơ Gien Ni Ca ta lan (Eugenie Catallan), sanh tại tỉnh Hà Đông Hà Nội. Thân phụ của Sư Bà là cụ ông Ê liên Catalan (Eliene Catallan), là một công chức người Pháp. Thân mẫu của Sư Bà là cụ bà Nguyễn Thị Đắc là một y sĩ người Việt. Sư bà sanh trưởng trong một gia đình đạo hạnh nề nếp gia phong, được hun đúc một đời sống lễ nghi phong đường của truyền thống Châu Á. Sư bà được hấp thụ kiến thức văn hóa sâu rộng từ nền giáo dục Tây Phương, với một cung cách sống trong khuôn phép nhưng phóng khóang, lịch sự nhưng cương trực.
Sư bà Người là một trong số ít các bậc nữ lưu sống trong thời kỳ Pháp thuộc, có văn bằng Diplome D’étude Primaire Supérieur, Cô Eugénie trở thành một cô gíao đoan trang thông tuệ mẫu mực, lấy việc dạy học làm sự nghiệp cho đời mình.
Với một tâm hồn từ bi nhân hậu, lúc nào cũng quan tâm tới những mảnh đời bất hạnh khó nghèo bệnh họan đầy đau khổ. Với trí tuệ uyên bác của một bậc trí thức mang hai dòng máu Đông Tây, cô giáo Catallan Nguyễn Thị Ni sớm dấn thân vào những công tác từ thiện xã hội để giúp đỡ an ủi những con người bất hạnh.
Sư Bà là một trong những vị sáng lập và và phát triển nhiều gia đình Phật Tử ở Hà Nội Hải Phòng mà thời bấy giờ thường gọi là gia đình Phật Hóa Phổ.
Sư bà thường viết bài cho báo Bồ Đề của sư cụ Thích Tuệ Nhuận với bút hiệu Cát Tường Lan, đưa những ý tưởng Phật pháp thực tiễn để chuyển hóa tư tưởng cho các giới thanh thiếu niên giữa thời kỳ giao thoa giữa Nho giáo và Tây học.
Rồi tới một dịp nghe được sư cụ Thích Tuệ Nhuận giảng kinh Lăng Nghiêm ở chùa Quán Xứ, đến phẩm Quán Âm Quảng Trần và chương Đại Thế Chí Niệm Phật, cô giáo Catallan Nguyễn thị Ni hốt nhiên lãnh hội được sự vi diệu của Phật Pháp.
Sư Bà quy y với Đức Pháp Chủ Thích Mật Ứng và được ngài ban cho pháp danh Hải Triều Âm. Đến năm 1949 tức là năm Sư Bà 29 tuổi, xin xuất gia với Hòa Thượng Pháp Chủ Thích Đức Nhuận tại chùa Đồng Đắc.
Năm 1952, vâng lời Hòa thượng bổn sư, Sư Bà vào Nam, nhập chúng tại ni trường Dược Sư, Gia định Saigòn, do cố hòa thượng Thích Thiện Hóa sáng lập, dưới sự giảng dạy của các bậc thày nổi tiếng đương thời là hòa thương Thiện Hoa. Tại đây, sư bà vừa lo tu học tinh trì giới luật, vừa lo phụng dưỡng mẹ già bị bán thân bất tọai, vừa đảm trách việc giảng dạy cho các Phật tử, đồng thời, sư bà vẫn chuyên tu quán Tứ Niệm Xứ để khai thông tuệ giác, dụng sở đắc về bộ kinh Thủ Lăng Nghiêm để khai tri kiến Phật.
Năm 1962, sau khi thân mẫu qua đời, để thể hiện tấm lòng hiếu tử, sư bà đến nương thịnh đức hòa thượng Thích trí Tịnh ở chùa Vạn Đức, Thủ Đức. Ròng rã suốt 5 năm nhập thất với nguyện vọng thể nhập Niệm Phật Tam Muội. Năm 1968, noi gương tổ Huệ Viễn, hòa thượng Thích Thiền Tâm khai mở tông Tịnh Độ ở thôn Phú An, Đức Trọng Lâm Đồng, mời sư bà về để cùng với một số ni chúng thành lập xã Hoa Sen. Nơi đây sư bà nhập thất và chuyên tâm niệm Phật tại tịnh thất Linh Quang.
Năm 1970 HT Thích Thanh Từ mở khóa tu thiền 3 năm tại thiền viện Chơn Không ở Vũng Tàu. Sư bà là một trong 10 vị đầu tiên được chiêu sinh. Nơi đây, sư bà ngộ được tôn chỉ “Chi vọng vọng tan, chính là quán hạnh Tứ Niệm Xứ. (nhạc)
Sở trường của sư bà là pháp môn “Nhĩ căn viên thông” (Bồ tát Quan Thế Âm) kết hợp với Niệm Phật Chiếu Kiến Tam Muội (định Niệm Phật). Sư bà nghiêm trì giới luật (chân thành giữ 348 giới như băng sương), sư bà không giữ tiền bạc, chỉ độ ngọ trước 12 giờ trưa, (sau 12 giờ không ăn), Sư Bà tích cực đề xướng và tham gia các công tác từ thiện, ấn tống, dịch thuật và biên soạn toát yếu tới cả 100 đầu sách (có giá trị giác tỉnh hướng nội, buông xả tuyệt đối không theo duyên trần bên ngoài), và đặc biệt có duyên độ đệ tử ni xuất gia với số lượng lên tới cả ngàn vị (Sư Bà là bậc sư trưởng có số đệ tử ni đông nhất trong thế kỷ hiện nay). Nơi tĩnh tu và độ chúng của sư bà là Ðại Ninh, Lâm Ðồng với các chùa như Linh Quang, Hương Sen, Dược Sư…
Sư bà mở thêm 9 cơ sở tự viện từ Ni Liên, Linh Quang, Liên Hoa, Viên Thông, Hương Sen, Dược Sư, Lăng Nghiêm, Bát Nhã, Dược Sư 2. Phật từ khắp nơi tìm về qui y nhiều không kể xiết.
Sư Bà Biên sọan, dịch thuật các kinh điển để làm tài liệu giảng dạy. Tóm lược các bộ kinh lớn cho phật tử dễ hiều như kinh Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, luật tạng như hai cánh nhà Ni đến luận tạng như Lăng Nghiêm Chính Mạch, tất cả lên tới cả trăm tựa sách, nhưng người lại ẩn danh, không để tên của mình.
Với Ni chúng, Sư bà Lấy Bát Tính Pháp làm tòng lâm thị phạm, lấy Tứ Niệm Xứ làm pháp môn quán hạnh, lấy niệm Phật làm chìa khóa tu trì. Các kinh quan trọng như kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa, Kinh Bát Nhã, Kinh Di Đà, Lăng Già, v.v…Danh tiếng và đạo hạnh của Sư Bà vang tới khắp nơi trên thế giới.
Sư bà là bậc lương đống cho hàng hậu học ni chúng, là tấm gương sáng của một bậc Trưởng lão Ni, hết lòng tôn kính Phật – Pháp – Tăng, tận tình vâng theo lời Phật dạy, nghiên cứu đạo pháp, truyền bá giáo pháp. Đối với Tăng Ni, Sư bà khiêm cung, kính trọng, luôn luôn dạy dỗ hàng đệ tử ni suốt đời phải thực hành Bát kính pháp, sống lục hòa, trên kính dưới nhường, giữ giới Tỳ-kheo-ni tinh nghiêm, lấy Giới – Định – Tuệ làm sự nghiệp chính của mình, là nơi quy ngưỡng của nhiều người.
Sư bà an bình viên tịch lúc 11 giờ 56 phút ngày 24/6/ năm qúi tỵ nhằm ngày 31/7/2013 hưởng thượng thọ 94 tuế thế. 60 hạ lạp.
Những Điều Mầu Nhiệm về sư bà Hải Triều Âm:
Trước khi viên tịch, Sư Bà dặn dò rằng chỉ sau khi sư bà hết thở 24 giờ đồng hồ thì mới thông báo tin tức cho đại chúng biết, và theo đúng lời của sư bà đã dạy, tất cả ni chúng đều đã nhận thấy các điều màu nhiệm đầu tiên như :
** Sau 24 tiếng, nhục thân của sư bà vẫn mềm mại. sắc diện vẫn hồng hào phương phi như lúc còn sanh tiền. Gương mặt vẫn nhẹ nhàng tươi tắn thanh thóat.
Điều nhiệm màu khác là trong 6 ngày đầu tiên, sau khi sư bà viên tịch thì trên đỉnh bảo tháp nơi chùa Dựoc Sư VN luôn xuất hiện vầng hào quang trước sự chứng kiến của tất cả chư tôn đức, tăng ni và hàng phật tử từ khắp nơi về chùa tham dự tang lễ. Vòng tròn ngũ sắc rực rỡ lan tỏa chung quanh ánh sáng mặt trời. Vào ngày kim quang của sư bà nhập bảo tháp, trong vòng hào quang còn xuất hiện một đóa hoa sen trắng. Khi tìm hiểu về hiện tượng này thì được biết, trước khi viên tịch, thì sư bà đã để lại di tích báo trước về những điềm lành này. Mặt khác, vào ngày vía của đức văn thù sư lợi bồ tát mồng 4/4 năm qúi tỵ tức là ngày 13/5/2013, cũng là ngày kỷ niệm 60 năm xuất gia của sư bà, một vầng hào quang xuất hiện rực rỡ trên đỉnh bảo tháp kéo dài từ 8 giờ sáng đến 12 giờ trưa.
Trước ngày viên tịch, đệ tử hỏi thì sư bà đã cho biết trước rằng sư bà đã nhìn thấy đức A Di Đà, đức Văn Thù sư lợi bồ tát, đức phổ hiền bồ tát cùng với rất đông đảo các thánh chúng sẽ đến tiếp dẫn hương linh của sư bà.
Đệ tử hỏi : – Thưa, chừng nào sư bà đi theo đức văn thù ?
Sư Bà trả lời : – Đi ngay bây giờ, đừng đợi chờ.
Hỏi : – Bên cạnh đức Văn Thù Sư Lợi, còn có vị nào khác đi theo ?
Sư Bà trả lời : – Còn nhiều lắm.
Hỏi : – Thưa Sư Bà có thấy Đức Phật Di Đà tới đón không?
Sư Bà trả lời : – Có thấy.
Hỏi : Đức Phật Di Đà đến đón ngài mặc áo màu gì?
Sư Bà đáp : – mặc áo màu trắng.
Trong suốt 7 ngày sau tang lễ, mỗi tuần đều có hào quang xuất hiện trên nền trời. Riêng tuần lễ thứ tư, ngòai ánh hào quang, còn có đám mây ngũ sắc hiển hiện bên cạnh những áng mây trắng xóa trên nền trời.
Tất cả những hiện tượng này sư bà đều đã biết trước và đã viết xuống qua bút tích mà người đã lưu lại vào ngày 6/7/2009.
Sư Bà còn dặn dò rằng : – Khi nào các con nhớ đến thày, hãy đi kinh hành qua bảo tháp, hãy ngồi thiền quanh bảo tháp niệm Phật và chiêm nghiệm lời Phật dạy để tăng trưởng đạo tâm.
Đức phóng sanh của Sư bà thì vô lượng, đi tới đâu, sư bà cũng phóng sanh rất nhiều các lòai sinh vật và không quên qui y cho chúng. Tấm lòng của Sư bà nhân hậu từ bi, yêu thương, gần gũi ủi an tất cả mọi người không bao giờ phân biệt giả trẻ, lớn bé, nam nữ. Sư bà nhắc nhở rằng : “Tu môn nào cũng phải thấy rõ Phật Tánh rồi mới có thể thành Phật được.”
Ni sư Giới Hương là một trong hàng trăm đệ tử xuống tóc xuất gia với sư bà Hải Triều Âm. Ni Sư đã lập nên chùa Hương Sen (như tên chùa Hương Sen gốc ở Đại Ninh) thuộc thành phố Perris, tiểu bang California, cách Phước Lộc Thọ hơn một tiếng đồng hồ lái xe.
Vào tháng 10 năm 2016, ni sư Giới Hương cùng với các chư ni về thăm chốn tổ như Chùa Dược Sư, Linh Quang, Hương Sen… đã đảnh lễ bảo tháp nhục thân của sư bà và đã thỉnh xá lợi của sư bà về Cali, Hoa Kỳ. Các xá lợi như:
Xá lợi tóc có (óng ánh năm màu ngũ sắc dưới ánh nắng cho những ai có duyên nhìn thấy)
Chiếc chén dùng cơm hàng ngày của sư bà để đem qua Hoa Kỳ thờ phượng, để nơi đây kết duyên với hạnh đức và từ lực của sư bà.
Nay chùa Hương Sen, muốn xây Tháp Tứ Ân để tôn thờ xá lợi của sư bà, cùng với tro cốt của các bậc xuất gia và tại gia quá vãng. Đây là ruộng phước điền cao qúi để cho các qúi Phật tử gieo duyên với Sư bà – vốn là một bậc trưởng lão ni đã cống hiến cả một đời nghiêm trì giới hạnh và chuyên tu miên mật. Cúng dường công đức vào việc xây THÁP TỨ ÂN, chúng ta ít nhiều sẽ:
Từ bỏ không gieo nhân đau khổ trong sáu cõi nữa.
Hướng lên, được kết nhân duyên giác tỉnh làm thánh, làm hiền, theo đạo hạnh của sư bà.
Được tiếp xúc trực tiếp với năng lực từ bi và trí tuệ phi thường phát ra từ xá lợi óng ánh của Sư bà.
Được đến đảnh lễ xá lợi của sư bà để tăng thêm lòng tin rằng: hễ chúng ta sống một đời niệm Phật, giới hạnh thanh tịnh, tu tập tâm linh thì khi chết sẽ lưu lại xá lợi óng ánh cho thế gian. Đây là kết tinh bản chất của vị cao ni đắc đạo. Sự thuần khiết của bản thể các cao tăng hay cao ni được xuất hiện dưới hình thức xá lợi óng ánh.
Mọi sự phát tâm đóng góp cúng dường xây THÁP THỜ XÁ LỢI xin quí vị ghi: Hương Sen Buddhist Temple, memo xin đề : Tháp Tứ Ân và gởi về địa chỉ:
Huong Sen Buddhist Temple, số: 19865 Seaton Ave.
Perris, CA 92570. USA
Tel: 951-657-7272 , Cell: 951-616-8620
Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it. ,
This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.
Facebook:https://www.facebook.com/chuahuongsen
Web: www.huongsentemple.com
Mọi thông tin chi tiết, xin liên lạc trực tiếp:
Ni sư Trụ Trì Thích Nữ Giới Hương: Điện thoại di động: 951-616-8620 Mọi sự cúng dường, sẽ được chùa HS sẽ viết phiếu biên nhận công đức (receipt) theo địa chỉ và phương danh của quý vị để qúi thí chủ có thể khai miễn thuế với số ID của Chùa là : 37-1605292. Đây là một trong những phước thiện để chúng ta gieo phước cúng dường đối với một bậc chân tu liễu đạo thuộc hàng Tăng Bảo (tức là một trong ba bậc cao quý của Tam Bảo) trên thế gian.
Nguyện cầu Phật Tổ chứng minh và gia hộ cho tất cả quý Phật tử hảo tâm sáu thời thường an lành trong ánh hào quang của Chư Phật.
Nam Mô Trang Nghiêm Bảo Tháp tác đại chứng minh.
Chùa Hương Sen, ngày 01/01/2018
Trụ trì : Ni Sư Tiến Sĩ Thích Nữ Giới Hương
(Nhạc)
Kính thưa qúi vị, sau đây kính mời qúi vị cùng chia xẻ
NHỮNG ĐỨC HẠNH Cao Qúi CỦA SƯ BÀ HẢI TRIỀU ÂM
Ngày ngày sư bà lên lớp giảng dạy cho chư ni, từ sáng đến trưa, từ trưa đến chiều với lời lẽ uyên bác, chỉ bảo mặt phải, răn dạy mặt trái. Nhắc đi nhắc lại, cặn kẽ từng lời, mong sao cho các con thấm nhuần kinh pháp. Lời giảng dạy ai nghe cũng thấy đúng như tâm trạng của riêng mình, hợp thời, hợp cơ, giản dị dễ hiểu, lại rất thực tế.
Sư bà khiêm cung, giản dị, từ hòa, nhưng nghiêm khắc khiến đưa đại chúng vào khuôn khổ giới luật, nội quy. Sửa trị những tính xấu ác, bao dung hỉ xả những lồi lầm, chỉ cốtmong cho đại chúng trở thành những bậc pháp khí trong Phật pháp.
Sư bà luôn luôn một lòng lo cho đại chúng từ tinh thần đến vật chất, hy sinh sức khỏe thời giờ, tận tình từ đời sống tạm thời đến rồi lại đi, tới đời sống đạo vị lợi ích vĩnh viễn trong kiếp tương lai. Suốt ngày trọn đêm, sư bà không giờ phút nào ngơi nghỉ trong bổn phận tự giác, giác tha.
Tấm gương vô ngã vị tha, không lời lẽ nào có thể kể hết được những hạnh đức, đã gieo vào tâm thức ni chúng những ấn tượng khó phai.
Học chúng đổ về học pháp rất nhiều, đến nỗi không đủ chỗ, nên Sư bà phải sửa sang lại phòng tắm để làm chỗ nghỉ cho mình, và nhường căn phòng của mình làm chỗ ở cho đại chúng.
Những ngày vào đông giá rét ở xứ lạnh cao nguyên, người người ai ai cũng co ro lo tìm kiếm sự an ổn cho riêng mình. Nhưng đối với Sư bà, thì những áo mền ấm áp nhường lại tất cả cho đàn con, sư bà tự ráp những tấm vải thô vừa nặng nề vừa chẳng đủ ấm để làm cho phần của mình.
Sư Bà nhận thấy đàn hậu lai trí kém tuệ ít, cho nên Sư bà toát yếu lại những bộ kinh Hoa Nghiêm, Bát Nhã, Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, luật Tỳ-kheo-ni v.v… bằng lời văn giản dị, xác thực để giúp cho học chúng dễ nắm được yếu chỉ của kinh luật. Vì là một bậc chân tu liễu đạo, thường ẩn danh khiêm ái cho nên mỗi một cuốn sách đã viết ra, sư bà không để tên mình bao giờ, mà chỉ lấy tên của các đệ tử đặt vào sách.
Sư bà thường răn nhắc Ni chúng phải tinh tấn tu hành để đền ơn thí chủ. Phải sống đời sống giản dị, tiết kiệm từng hạt cơm hạt gạo, từng tấm vải thô sơ, không được phung phí những vật dụng của Tam-bảo, phải biết yêu tiếc như giữ tròng trong con mắt.
Sư bà kiệm đức kiệm phước trong từng hành động, 70 tuổi vẫn tự giặt lấy áo khăn, tự giăng mùng nghỉ, không phiền nhọc đến một người hầu hạ. Mãi cho đến năm thọ 80-94 tuổi, vì Phật sự đa đoan, vì tuổi già mỏi nhọc, sư bà mới để cho hàng đệ tử thị giả trợ giúp.
Sư bà ít khi bộc lộ ra hiện tướng mỏi nhọc buồn phiền, gặp ai cũng nở nụ cười từ ái bao dung. Bất cứ ai khi đến gần bên Sư bà đều cảm nhận ngay được sự mát mẻ từ bi, làm cho tất cả bao phiền não đều tiêu tan hết (đó là một trong những lý do mà ni chúng nương về tu học bên sư bà rất đông, cho dù sư bà ẩn tu nơi xa xôi rừng thẳm).
Vì sư bà đã thấu đạt được chân lý là “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”, nên con sâu con kiến, hàm linh bảo thức, các loài chúng sanh, có duyên với sư bà đều được thừa hưởng ân đức từ sư bà quy y, bố thí, ban bố, được thấm nhuần pháp vị.
Sư bà dạy rằng một khi đã làm con sâu, con kiến, thì rất khó đi lên, cho nên phải biết đến sự nguy hiểm mà chúng ta phải cố thoát ra. Bây giờ trong nghiệp dĩ làm người này, chúng ta có nhiều khả năng học hiểu về Phật pháp để cầu mong giải thoát, có nhiều cơ hội để vượt khỏi cửa ải, nếu mất thân người mà bị đọa trong 12 loài thì rất khó tu tập để đi lên.
Vì vậy, lòng từ bi của sư bà không chỉ nhân loại được thừa hưởng mà còn thấm nhuần đến từng cỏ cây, loài vật. Đối với chúng sanh, đói thì sư bà cho ăn, khát thì sư bà cho uống, rét thì cho áo mặc, chuyên cần niệm Phật để chúng kết duyên với Phật pháp từ đời này đến đời sau. Sư bà dạy rằng : “Đó chính là những huynh đệ của chúng ta từ bao kiếp trước, nhưng chỉ vì một chút lỗi lầm mà bị đoạ làm thân chó ngựa, cho nên các con phải tận tình nhủ lòng thương xót”.
Đức hạnh của Sư bà như núi cao bất động trước cảnh đời dâu bể, vẫn cúi xuống tận lực đùm bọc che chở, nuôi dưỡng nhũng hạt giống thánh chủng cho hàng đệ tử ni.
Định lực an định của Sư bà như núi cao bất động trước phong ba của tám gió. Trí tuệ như trăng sáng chiếu soi, phá tan bao hắc ám của cuộc đời sanh tử. Giúp cho chúng ni tăng thêm sức mạnh vững vàng trên con đường tu tập thánh thiện.
Một lòng tôn kính Phật, Pháp, Tăng, khi gặp bất cứ hình tượng Phật nào, kinh sách Phật nào và chư tôn đức tăng nào, sư bà đều thành kính đảnh lễ.
Luôn luôn tận tình học pháp, nghiên cứu pháp, truyền bá giáo pháp, cả cuộc đời sư bà là nêu cao tấm gương vì pháp quên thân.
Đối với hàng Tăng Ni, Sư bà khiêm cung, kính trọng, đãnh lễ và dạy hàng đệ tử suốt đời phải thực hành Bát Kính Pháp.
Sư bà truyền dạy cho chúng ni phải noi theo nếp sống lục hoà, trên kính dưới nhường, lấy Giới Định Tuệ làm sự nghiệp chính của mình.
Sư bà vì đàn hậu lai đã mở ra một đường lối tu hành rõ ràng giản dị qua các bài giảng, các bài Di Chúc, qua cuốn Bốn Mùa Hoa giác, Lăng Nghiêm và các kinh sách toát yếu khác. Đây vừa là lời dặn dò, vừa là con đường tu hành của bản thân sư bà và cũng vừa là kim chỉ nam chỉ lối đưa đường cho đàn đệ tử ni hiện tại và hậu lai trên bước đường tu học giải thoát.
ĐỊA CHỈ XÂY THÁP TỨ ÂN THỜ XÁ LỢI SƯ BÀ HẢI TRIỀU ÂM tại Hoa Kỳ
Tại Huong Sen Buddhist Temple
Tọa lạc số : 19865 Seaton Ave.
Perris, CA 92570. USA Tel: 951-657-7272, Cell: 951-616-8620
Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it. ,
This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.
Facebook:https://www.facebook.com/chuahuongsen Web: www.huongsentemple.com
Xá lợi của Chư thánh tăng từ đâu mà có? Trong kinh Kim Quang Minh nói rằng: “Xá lợi là sự kết tinh công phu tu tập từ Giới-Định-Tuệ, rất khó được (không phải ai cũng có), là phước điền tối thượng”.
Với ý nghĩa này,chúng ta biết rằng ai có nhân duyên lễ bái, đảnh lễ và chiêm ngưỡng xá lợi là một phước đức lớn lao. Xá lợi sẽ đem đến cho người chiêm bái một cơ hội được gần Phật, Bồ-tát, chư hiền thánh tăng về phương diện tâm linh. Các Ngài cũng như sư bà Hải Triều Âm có chủ ý lưu lại xá lợi để chúng ta có cơ duyên tạo phước điền, gieo nhân hạnh an lạc giải thoát cho chính mỗi chúng ta.
Kính thưa qúi vị,
Mọi thông tin chi tiết, xin liên lạc trực tiếp: Ni sư Trụ Trì Thích Nữ Giới Hương: Điện thoại di động: 951- 616-8620
Trân trọng cảm tạ và kính chào.
Nam Mô Hoan Hỉ Tạng Bồ tát ma ha tát tác đại chứng minh.
Thưa qúi vị thính giả, đến đây, chương trình phát thanh do Nguyên Hà phụ trách xin đươc tạm ngưng nơi đây. Cám ơn quí vị đã theo dõi và xin được gặp lại trong kỳ phát thanh sắp tới.
Nguyên Hà Trân trọng kính chào.
Cuộc Đời Và Đạo Quả Của Sư Bà Hải Triều Âm
Sư bà Hải Triều Âm là tấm gương sáng của một bậc Trưởng lão Ni, hết lòng tôn kính Phật – Pháp – Tăng, gặp bất cứ hình tượng Phật nào Sư bà đều thành kính đảnh lễ. Tận tình học pháp, nghiên cứu pháp, truyền bá giáo pháp.
>NHỮNG NHÂN VẬT ĐẶC BIỆT CỦA PHẬT GIÁO Sơ nét về Sư Bà Hải Triều Âm
Sư bà sinh năm 1920 tại tỉnh Hòa Bình, Bắc Việt. Vì mang trong người 2 dòng máu Pháp-Việt, nên ngoài tên tiếng Việt là Nguyễn Thị Ni, còn được đặt tên tiếng Pháp là Eugénie Catallan. Thân phụ là cụ ông Etienne Catallan. Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Đắc.
Lấy xong bằng tốt nghiệp Diplôme D’étude Primaire Supérieur, Sư bà đi dạy học. Ngay khi còn tại gia, Sư bà đã biểu lộ lòng từ bi. Ngày ngày dạy học, ngoài thời giờ Sư bà vào các bệnh viện, trại mồ côi, dưỡng lão để giúp đỡ an ủi động viên những mảnh đời bất hạnh.
Sư bà Hải Triều Âm một lòng lo cho đại chúng, từ tinh thần đến vật chất, hy sinh sức khỏe thời giờ, tận tình từ đời sống tạm thời đến rồi đi, tới đời sống đạo vị lợi ích vĩnh viễn trong kiếp tương lai.
Cơ duyên được biết Phật pháp là do Sư cụ Thích Tuệ Nhuận. Bài pháp đầu tiên được nghe Sư cụ giảng tại chùa Quán Sứ là kinh Lăng Nghiêm, phẩm Quán Âm Quảng Trần và chương Đại Thế Chí niệm Phật. Lãnh hội được sự vi diệu của Phật pháp đem lại niềm an vui cho mọi người, Sư bà in những cuốn kinh nhỏ phát cho những Phật tử tới chùa tụng kinh hàng ngày.
Sư bà quy y với Đại lão HT.Thích Mật Ứng, được ngài đặt pháp danh là Hải Triều Âm. Sư bà thành lập gia đình Phật tử, mở các hội trưởng lão, thanh thiếu niên, nhi đồng ở Hà Nội, Hải Phòng. Ngoài ra Sư bà còn viết báo cho tòa báo Bồ Đề của Sư cụ Thích Tuệ Nhuận, dưới bút hiệu là Cát Tường Lan. Các bài pháp rất thực tế, đưa Phật pháp vào tư tưởng thanh thiếu niên thời bấy giờ.
Năm 29 tuổi, thâm ngộ lẽ vô thường, dù phước thiện thế gian có hay đến đâu cũng không thể đưa đến giải thoát. Sư bà xuất gia với Đại lão HT.Thích Đức Nhuận, ở chùa Đồng Đắc, Hà Nội. Y chỉ và thọ giới với Sư cụ Tịnh Uyển, chùa Thanh Xuân, làng Phùng Khoang, Hà Nội.
Đến năm 1954, vâng lời Hòa thượng di cư vào Nam, Sư bà nhập chúng ở chùa Dược Sư, Gia Định, Sài Gòn. Vừa lo tu học, vừa hầu mẹ già bị bệnh bán thân, vừa lãnh việc chuyên giảng dạy cho Phật tử. Sư bà tinh trì giới luật, nghe kinh Kim Cang lãnh ngộ được tông chỉ niệm Phật. Tu quán Tứ Niệm Xứ để khai tuệ giác tỉnh, sở đắc về bộ kinh Lăng Nghiêm để khai tri kiến Phật.
Sau khi thân mẫu qua đời, vì muốn báo hiếu công ơn mẹ, thấy rằng không gì bằng công đức tu hành, Sư bà nhập thất 5 năm ở chùa Vạn Đức, Thủ Đức, chúng tôi chuyên tâm niệm Phật. Sau chuyển lên Phú An, Đức Trọng, Lâm Đồng nhập thất 7 năm tại ngôi tịnh thất nhỏ Linh Quang, những mong nhập niệm Phật tam muội.
Đối với đại chúng, Sư bà khiêm cung, giản dị, từ hòa. Nhưng nghiêm khắc đưa đại chúng vào khuôn khổ giới luật, nội quy. Sửa trị những xấu ác, nhưng bao dung những lỗi lầm chỉ cốt cho đại chúng thành những bậc pháp khí trong Phật pháp.
Sư bà một lòng lo cho đại chúng, từ tinh thần đến vật chất, hy sinh sức khỏe thời giờ, tận tình từ đời sống tạm thời đến rồi đi, tới đời sống đạo vị lợi ích vĩnh viễn trong kiếp tương lai. Suốt ngày trọn đêm không giờ phút nào Sư bà ngơi nghỉ trong bổn phận tự giác giác tha.
Sư bà là tấm gương sáng của một bậc Trưởng lão Ni, hết lòng tôn kính Phật – Pháp – Tăng, gặp bất cứ hình tượng Phật nào Sư bà đều thành kính đảnh lễ
Lúc Sư bà ở chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, chúng tôi học chúng đổ về học pháp rất nhiều. Sư bà đã biên soạn toát yếu lại những bộ kinh Hoa Nghiêm, Bát Nhã, Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, luật Tỳ-kheo-ni v.v… lời văn giản dị, xác thực để học chúng dễ nắm được yếu chỉ của kinh luật. Mắt đeo kính, dưới ánh đèn dầu, Sư bà miệt mài đọc sách dịch kinh. Từng bộ kinh Hán văn dày cộm đầy những chữ với bộ óc tuổi già thật mỏi nhọc, Sư bà vẫn hết sức cố gắng cặm cụi dịch sang Việt ngữ để đàn hậu lai có sách học tập. Sư bà đã biên dịch, biên soạn, toát yếu gần 100 đầu sách…
Sư bà là tấm gương sáng của một bậc Trưởng lão Ni, hết lòng tôn kính Phật – Pháp – Tăng, gặp bất cứ hình tượng Phật nào Sư bà đều thành kính đảnh lễ. Tận tình học pháp, nghiên cứu pháp, truyền bá giáo pháp. Đối với Tăng Ni, Sư bà khiêm cung, kính trọng, luôn dạy hàng đệ tử suốt đời phải thực hành Bát kính pháp, sống lục hòa, trên kính dưới nhường, lấy Giới – Định – Tuệ làm sự nghiệp chính của mình, là nơi quy ngưỡng của nhiều người.
Sư bà Hải Triều Âm đã an nhiên thu thần thị tịch vào lúc 11 giờ 56 phút ngày 24-6-Quý Tỵ (nhằm ngày 31-7-2013) tại chùa Dược Sư, thôn Phú An, xã Phú Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng, trụ thế 94 năm, 60 năm tuổi đạo.
Trở thành nhân vật của Hãng phim Phật giáo Sen Việt
Cuối tháng 06 năm 2014, Hãng Phim Phật giáo Sen Việt đã có được duyên lành đến ngôi chùa Dược Sư, thôn Phú An, xã Phú Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng để ghi lại những hình ảnh chân thực nơi trú xứ của Cố Sư Trưởng Hải Triều Âm.
Sen Việt đã thực hiện một Phim tài liệu dài 50 phút, tổng hợp tư liệu ngắn gọn về Sư Bà Hải Triều Âm với những thông tin về tiểu sử, quá trình hành trì tu tập và hành Đạo của người.
Đặc biệt trong Phim tài liệu này còn ghi nhận những tư liệu giá trị thiêng liêng về những điều màu nhiệm sau khi Sư Bà viên tịch, mang đến nhiều xúc cảm cho mọi người khi xem.
Sen Việt mong muốn rằng không dừng lại ở việc chia sẻ những thước Phim cho đệ tử mà kể cả những người không biết hay chưa biết nhiều về Sư Bà có thể có thêm nhiều bài học ý nghĩa cho đời mình khi xem qua thước Phim ngắn này.
Từ đây, Sen Việt hy vọng có đủ duyên lành để làm nên một bộ phim về “Cuộc đời và Đạo nghiệp của Sư Bà Hải Triều Âm” sau bộ phim đã thực hiện thành công như: “Cuộc đời và Đạo nghiệp của Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Minh Châu” nằm trong dự án Sen Vàng Ngát Hương, “Về Phía Mặt Trời” – tái hiện cuộc đời và Đạo nghiệp của Hòa Thượng Thích Trí Tịnh (Phim đang trong giai đoạn hậu kỳ) để lại cho hàng hậu học những bài học giá trị từ cuộc đời và Đạo nghiệp của các bậc cao Tăng Ni Việt Nam.
Mời quý Phật tử xem bộ phim THANH ÂM VANG VỌNG – TIỂU SỬ VỀ CUỘC ĐỜI VÀ ĐẠO QUẢ CỦA SƯ BÀ HẢI TRIỀU ÂM do hãng phim Phật giáo Sen Việt thực hiện tại link này: https://bitly.vn/36x
Thanh Tâm (Tổng hợp)
Một Góc Nhìn Khác Về Việc Lo Hậu Sự Sư Bà Hải Triều Âm
Ban Biên tập: Vừa qua, dư luận Tăng Ni, Phật tử trong và ngoài nước cho nhiều băn khoăn về việc lo hậu sự của Sư bà Hải Triều Âm, trong đó vấn đề mấu chốt là nơi sẽ nhập tháp của Sư Bà. Sự việc vẫn chưa ngã ngũ và chưa làm nhiều người tâm phục khẩu phục, nhất là những đệ tử của Sư Bà không thuộc chùa Dược Sư và chùa Bát Nhã. Để có góc nhìn đa chiều, chúng tôi xin giới thiệu bài viết của tác giả Huệ Minh – một cây bút quen thuộc và là thành viên của Ban Biên tập Trang tin chúng tôi Tuy nhiên, bài viết không nhất thiết phản ánh quan điểm của Ban Biên tập.
V ừ a rồi trang nhà chúng tôi có đăng 1 số tin, bài, ảnh về một số chuyện quanh việc sẽ lo hậu sự của Sư bà Hải Triều Âm . Thông tin phản hồi cũng đa dạng và nhiều tâm tư.
Tổng hợp, phân tích, đối chiếu các sự việc và tài liệu, Huệ Minh có một số suy nghĩ xin được chia sẻ.
Vậy t âm nguyện của Sư bà về việc hậu sự ra sao?
Nhiều năm trước, khi còn mạnh khỏe, Sư bà đã sắp đặt hậu sự khi Sư bà viên tịch rất chu đáo.
1. Sư bà, theo luật Phật, đã tổ chức sơn môn theo quy định có nội chúng và ngoại chúng rõ ràng. Tất cả các sư Ni, đã từng xuất gia, thọ giới, tu học với Sư bà, đã từng nhập chúng trong 8 ngôi chùa, tịnh thất do Sư bà quản lý dù bao lâu, nhưng khi đã rời khỏi chúng, ra bên ngoài thì Sư bà hoàn toàn không chịu trách nhiệm và họ không có quyền tham gia quyết định nội vụ. Vì “khi đã ra ngoài chúng, hành tung thiện ác của họ, mình không có gì đảm bảo”.
Do vậy, việc các sư cô đã “xuất” chúng nhiều năm, thậm chí đi sang tận nước ngoài, hay đã tu theo pháp môn khác, nay quay về đưa ra yêu sách với Ni chúng, với Sư bà, gặp gỡ, kiến nghị với các cấp có lẽ không phụ hợp với nguyên tắc tổ chức chúng của Sơn môn?
2. Hơn nữa, sau rất nhiều lựa chọn, cân nhắc và tham khảo ý kiến, Sư bà đã tổ chức lễ động thổ xây kinh tĩnh hậu sự tại sân sau chùa Dược Sư, công khai, trang trọng và đúng phép tắc vào ngày 7/10/2006 . Ấn định và công bố nơi Sư bà sẽ nhập tháp sau khi viên tịch. Từ đó tới nay, điều này không hề thay đổi.
3. Về văn bản, ngày 22/11/ 2010 (âm lịch), Sư bà viết thư: “Thầy gởi toàn chúng Dược Sư. Thầy đã già yếu, sức khỏe không còn lâu dài, sắp về cảnh Phật. Thầy xin giao tất cả hậu sự của Thầy cho trụ xứ Dược Sư hoàn toàn trách nhiệm”.
Ngày 5/6/2012 (âm lịch), Sư bà viết: “Thầy đồng ý nhập tháp ở chùa Dược Sư. Thầy đã giao cho ban chức sự chùa Dược Sư. Xin chị em hòa hợp, tôn trọng ý kiến Thầy”.
Ngày 2/8/2012, Sư bà gửi đơn thỉnh cầu đến các cấp chính quyền và Giáo hội: “Con tỷ khiêu Ni Hải Triều Âm, xin quý ngài xét lại giúp cho con được mãn nguyện nhập tháp tại chùa Dược sư. Con đỉnh lễ tạ ơn”. Đồng thời để từ bi ngăn chặn các việc làm sai trái đáng tiếc mà các sư cô trên có thể mắc phải, ngày 25/1/2011, Sư bà đã viết thư khẳng định: “… các vị đã rời chúng ra ngoài thì tôi không trách nhiệm những vị đó” (Có ảnh bút tích đăng kèm). Tuy nhiên, chưa có sự kiểm chứng thật giả của các văn bản này.
Mọi việc Sư bà đã từ bi cắt đặt như vậy, chắc hẳn các bậc có trách nhiệm đều tôn trọng, lưu tâm.
Cho nên việc một số sư cô tự nhận là đệ tử thứ mấy, thứ mấy của Sư bà là không phù hợp với tôn chỉ Ni viện Tịnh độ của Sư bà. Người trong chúng phải là người đang tu hành và đang ở trong tổ chức. Những vị đã rời khỏi chúng thì Sư bà không có trách nhiệm và không yêu cầu trách nhiệm.
Hiện nay Ni chúng của Sư bà đang tu học, hành trì ở 8 cơ sở: chùa Dược Sư – Sư bà trực tiếp lãnh chúng và đã tịnh tu tại đó 20 năm, có 156 sư Ni, Chùa Bát Nhã có 144 vị, chùa Hương Sen có 98 vị, chùa Lăng Nghiêm có 13 vị, Tịnh viện Linh Quang có 4 vị, Tịnh viện Ni Liên có 1 vị. (Các cơ sở trên đều ở quanh chùa Dược Sư – Đức Trọng). Chùa Liên Hoa – Sài gòn có 20 vị, chùa Viên Thông – Đồng Nai có 20 vị. Tổng số nội chúng có gần 500 vị.
– Đã có một số ý kiến cho rằng:
1. Việc Sư bà đặt kim tĩnh và sẽ nhập tháp ở chùa Dược Sư là không được, vì nơi đó không thanh tịnh, có dòi bọ và gần hầm cầu – Thực tế cho thấy điều này là không đúng với sự thật.
2. Đất chùa Dược Sư về địa lý không tốt, không đẹp như đất nơi tịnh thất Linh Quang (!).
3. Cần nhập tháp Sư bà ở “chùa” Linh Quang, vì đó là “chốn Tổ”, là nơi “phát tích” (!) – Vậy: – chốn Tổ là Tổ nào? – Phát tích là Tích nào?
Ai cũng rõ, Sư bà chính là Tổ khai sơn hệ thống Ni viện Tịnh độ Hải Triều Âm, Ngài đã 20 năm và đang tịnh tu tại chùa Dược Sư (!).
Linh Quang chỉ là một tịnh thất trong số rất nhiều tịnh thất mà Sư bà đã tu tập từ năm 1948 đến nay, từ Bắc vào Nam. Huống hồ ai không biết, Sư bà duyên pháp với Đức Dược Sư.
Hiện nay, Linh Quang chỉ là một tịnh thất nhỏ, nằm hẻo lánh, đường xá ngoằn ngoèo, xe 2 bánh ra vào còn khó. Cả về lịch sử và thực địa đều không thuyết phục.
Và hơn hết, quyết định là ở Sư bà, với sự cân nhắc, từng trải và trí tuệ không thể nghĩ bàn!
4. Sau bao nhiêu năm yên bình tu tập, hành trì, khi các sư cô ngoài chúng trở về, đã có cảnh lộn xộn chính tại chùa Dược Sư. Rồi có tin phản ảnh, Ni chúng chùa Dược Sư ngăn cấm trái phép “đệ tử” đến thăm viếng và đang “giam lỏng” Sư bà. – Những thông tin này đã làm cho không ít môn đồ của Sư bà và Phật tử thập phương đau lòng, trăn trở.
Những điều đó, Sư bà trên giường bệnh, vẫn còn rất minh mẫn nên biết hết cả. Ngài vẫn ung dung tự tại, luôn cười từ ái. Cùng lắm cũng chỉ bảo: mọi việc đã cắt đặt, cứ thế mà làm, nên tôn trọng Thầy, việc đâu sẽ có đó.
Rồi Sư bà bảo ban chức sự chùa Dược Sư: Đại nhân duyên đã đến, các con ra Bắc, gặp Đại tăng Pháp chủ dâng tác bạch!
Thứ hai, Tâm nguyện về hậu sự của Sư bà phải chăng chưa được tôn trọng đúng mức. Trong khi, việc hậu sự của Sư bà đã được Ngài sắp đặt đầy đủ. Có nên đặt vấn đề xem xét, bàn bạc để thay đổi hay không?
Các cấp Giáo hội và chính quyền, hãy nên hỗ trợ các điều kiện để thực hiện tốt đẹp tâm nguyện của Sư bà.
Khi ngắm kỹ lại khung cảnh chùa Dược Sư, nhiều đêm suy nghĩ, liên hệ nơi này nơi khác, Tổ này, Ngài khác, Huệ Minh thấy, việc ai đó nặng lời yêu cầu dỡ bỏ bức lan can hàng rào và tự do vào thăm Sư bà; yêu cầu Ban chức sự chùa Dược Sư phải thế này, thế khác … hình như có điều gì đó hơi bất nhẫn, sự hiểu sâu và đồng cảm chưa đủ chăng?
Nhà chùa, tu viện được kiến lập, để duy trì các Tổ đã phải chế ra Thanh quy, lề lối. Là người tu hành, nhất là các đệ tử đã được Sư bà giáo dưỡng nền nếp, khuôn phép, phần lớn đều hiểu điều đó. Cho nên, việc một số sư cô vào trong Ni viện, to tiếng, muốn tùy tiện vào phương trượng của Tổ, ở nơi mình chỉ là khách, để các chị em đồng tu phải xô đẩy; rồi lại cho quay phim, ghép hình kêu cầu, nên chăng phải được xem xét đánh giá từ góc độ bản chất, không nên hời hợt nhìn nhận ở hiện tượng bề ngoài, nhất là hiện tượng đã được chủ tâm xếp đặt có dụng ý, khi tâm và trí có sự xao nhãng, để cái tâm thế tục chi phối.
Có lẽ chúng ta ai nấy nghĩ sâu một chút sẽ lắng lòng hơn, thị phi tự hiện.
Huống hồ, Sư bà còn đó, tỉnh táo, được đẩy xe đi dạo thung dung ngay bức lan can đó. Ngài thấy hết cả, phải chăng, Tổ đã thị hiện bệnh duyên để ai đó bộc lộ rõ chân tướng, tu tỉnh và “quay đầu lại là bờ”, ngõ hầu cảnh tỉnh hậu thế đó thôi?!
Tục Thờ Năm Ông Của Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương Và Tứ Ân Hiếu Nghĩa
06/09/2019
1. Đặt vấn đề
Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương ra đời năm 1849 và đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa ra đời năm 1867 là hai tôn giáo nội sinh trên vùng đất An Giang dưới triều Nguyễn, được xếp vào giai đoạn đầu trong dòng chảy các tôn giáo bản địa ở Nam Bộ. Không chỉ là tôn giáo, đây còn là những phong trào yêu nước và phong trào khẩn hoang có tầm ảnh hưởng lớn. Mặc dù về hình thức có nhiều điểm khác nhau, nhưng những tư tưởng cốt lõi trong giáo lý của hai đạo nầy tương đối giống nhau, đều dựa trên nền tảng căn bản là Tứ ân (ân tổ tiên cha mẹ, ân đất nước, ân Tam Bảo, ân đồng bào nhơn loại). Bên cạnh đó, việc thờ trần điều (vải đỏ sẫm) cũng là một đặc điểm nhận dạng của hai tôn giáo nầy.
Tuy nhiên, trong đạo Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa còn có một hình thức thờ cúng giống nhau mà đến nay chưa có nhiều công trình nghiên cứu quan tâm đến, đó là Ngũ Công Vương Phật hay Chư Vị Năm Ông. Nếu đối với giáo hệ Bửu Sơn Kỳ Hương, thờ cúng Năm Ông chỉ còn được biết qua một số tư liệu, thì đối với giáo hệ Tứ Ân Hiếu Nghĩa, thực hành tín ngưỡng nầy ngày nay vẫn còn tồn tại. Bài viết nầy chúng tôi xin giới thiệu một số đặc trưng của tục thờ cúng Năm Ông trong đạo Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa như nguồn gốc đối tượng tín ngưỡng, được đề cập đến.
2. Nguồn gốc đối tượng tín ngưỡng
Trong Phật giáo, tục thờ năm vị Phật được cộng đồng Phật tử theo Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo Mật tông chia sẻ, nhưng dưới hai hình thức khác nhau.
Trong kinh tạng Pali của Phật giáo Nguyên thủy (Theravada) có nhắc đến năm đời chư Phật tiêu biểu từ quá khứ đến vị lai bao gồm Kakusandha (Phật Câu Lưu Tôn), Konagamana (Phật Câu Na Hàm Mâu Ni), Kassapa (Phật Ca Diếp), Gotama (Phật Thích Ca Mâu Ni), Metteyya (Phật Di Lặc). Theo con đường hoằng pháp Nam truyền, năm vị Phật nầy được Phật tử các nước Myanmar, Thái Lan, Cambodia… thờ phượng rộng rãi, với hình thức thường thấy là tranh vẽ. Không chỉ thế, năm vị Phật đôi khi còn được giới pháp sư ngoại đạo đưa vào các hình thức bùa chú.
Trong khi đó, năm vị Phật ở Phật giáo Tạng truyền lại hoàn toàn vắng bóng trong kinh văn Pali nguyên thủy. Mật tông đưa ra hình tượng năm vị Phật tối cao của Kim Cang thừa, mà Trung Hoa dịch là Ngũ Trí Như Lai hay Ngũ Phương Phật gồm: Vairochana (Phật Tỳ Lô Giá Na), Akshobhya (Phật A Súc Bệ), Ratnasambhava (Phật Bảo Sanh), Amitabha (Phật A Di Đà), Amoghasiddhi (Phật Bất Không Thành Tựu). Đối với người tu Mật tông, năm vị Phật với tư cách là bổn tôn của hành giả, cũng là biểu trưng cho năm tánh cách của con người.
Tuy nhiên, đối tượng thờ cúng mà tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa gọi là Chư Vị Năm Ông hay Ngũ Công Vương Phật lại không liên quan đến một trong hai hình thức thờ cúng năm vị Phật từ hai truyền thống Phật giáo nói trên. Mỹ hiệu của Năm Ông (có khi được đi kèm với ngũ phương) bao gồm:
- (Đông Phương Thanh Đế) Chí Công Vương Phật
– (Tây Phương Bạch Đế) Lãng Công Vương Phật
– (Nam Phương Xích Đế) Bửu Công Vương Phật
– (Bắc Phương Hắc Đế) Hóa Công Vương Phật
– (Trung Ương Huỳnh Đế) Đường Công Vương Phật.
Vậy Ngũ Công Vương Phật là ai?
Thực ra, mặc dù mang danh xưng là Phật nhưng năm vị nầy lại không phải nhân vật Phật giáo, mà là năm vị tướng của Trung Hoa thời Tam Quốc được người đời sau tôn thờ gồm: Quan Công, Quan Bình, Châu Xương, Trương Tiên, Vương Thiên Quân. Năm vị tướng được xem là biểu tượng của trung nghĩa, nên việc thờ phượng các ông còn mang ý nghĩa giáo dục về lòng trung nghĩa. Tục thờ năm vị tướng nầy đã có từ lâu ở Trung Hoa, nhưng tương truyền mãi đến năm Càn Long thứ 46 (1781) triều Thanh mới chính thức có danh xưng Ngũ Công Vương Phật xuất hiện. Khi thể hiện bằng tranh, Quan Công thường ngồi ở giữa, hai bên có Quan Bình và Châu Xương, thêm Trương Tiên đứng sau Quan Bình và Vương Thiên Quân đứng sau Châu Xương.
Quan Công tên thật là Quan Vũ, tự Vân Trường, thời trẻ cùng Lưu Bị và Trương Phi kết nghĩa anh em, sau theo phò Lưu Bị và góp công lớn trong việc dựng nghiệp cho nhà Thục Hán. Ông nổi tiếng với đức tánh trung nghĩa, được người đời sau tôn là Quan Thánh Đế Quân hay Hiệp Thiên Đại Đế. Tạ Chí Đại Trường [2014: 293-294] nhận định: “Tính chất lưu vong và thương nhân ít học (so với nho sĩ khoa bảng) khiến cho người Hoa biết ‘tiểu thuyết’ nhiều hơn kinh truyện, và tin nhân vật tiểu thuyết lịch sử hơn là trong sử kí. Thần Quan Đế của họ mang tính khu vực lưu tán (Nam Trung Quốc) là hình ảnh rút từ Tam Quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung chứ không phải từ Tam quốc chí của Trần Thọ”.
Quả như thế, Quan Bình vốn là con ruột của Quan Vũ, nhưng trong tiểu thuyết thì nhân vật chỉ nầy là con nuôi. Trong khi đó, Châu Xương hoàn toàn là một nhân vật hư cấu, với xuất thân là một tướng cướp, về sau theo phò Quan Vũ. Ảnh hưởng từ tiểu thuyết trên nên trong văn hóa dân gian Trung Hoa, Quan Bình được tôn là Quan Thái tử và hiệu là Cửu Thiên Uy Linh Hiển Hóa Đại Thiên Tôn, còn Châu Xương là Cương Trực Trung Dũng Đại Thiên Tôn.
Trương Tiên và Vương Thiên Quân cũng trở thành các vị thần trong Đạo giáo. Trương Tiên là vị thần phù trợ sản phụ và trẻ sơ sanh, được tôn là Linh Ứng Trương Tôn Đại Đế Thất Khúc Dục Thánh Thiên Tôn. Vương Thiên Quân được người Trung Hoa cho là Thiên Lôi (Lôi Công) và tôn là Thái Ất Lôi Thinh Ứng Hóa Thiên Tôn.
Người Hoa khi di cư sang Việt Nam đã mang theo tín ngưỡng Ngũ Công Vương Phật. Tục thờ cúng nầy dần trở nên phổ biến và được người Việt tiếp nhận. Nhiều gia đình người Việt xem Năm Ông là thần độ mạng cho gia chủ, thường thờ phượng dưới hình thức tranh kiếng, đặt trong một trang thờ nhỏ treo trên vách nhà. Nhiều nơi sản xuất tranh kiếng ở Nam Bộ có chế tác tranh thờ Năm Ông, phía trên tấm tranh có ghi dòng chữ Hán “Ngũ Công Vương Phật”. Tại núi Cấm (tỉnh An Giang) có miễu Năm Ông thờ phượng theo mô thức nầy. Ngôi miễu được xem là một trong những điểm linh thiêng trên núi Cấm, đặc biệt đối với giới bùa phép và đồng bóng [Tư liệu điền dã 2016].
3. Đặc điểm thực hành tín ngưỡng
3.1. Bửu Sơn Kỳ Hương
Đối với đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, chúng ta chưa tìm thấy lời dạy nào chính thức từ Đức Phật Thầy Tây An (giáo chủ Đoàn Minh Huyên) hoặc các cao đồ về việc thờ Năm Ông. Bởi không như Tứ Ân Hiếu Nghĩa xem trọng việc bày trí thờ phượng, Bửu Sơn Kỳ Hương chủ trương đơn giản hóa việc thờ cúng. Song, qua một số tư liệu, chúng ta có thể góp nhặt được những thông tin đáng lưu ý.
Thứ nhứt, năm 1851, Đức Phật Thầy Tây An giao cho đại đệ tử là Quản cơ Trần Văn Thành làm năm cây thẻ để ngăn chặn “kẻ dữ” xâm phạm đất đai. Đó là những cây gỗ lào táo, đẽo gọt thành hình búp sen và khắc bốn chữ “Bửu Sơn Kỳ Hương”, được cắm ở bốn hướng và một ở trung tâm. Các cây thẻ lần lượt được mang tên giống với danh hiệu Ngũ Công Vương Phật nói trên, bao gồm:
– Đông Phương Thanh Đế (nay ở xã Cần Đăng, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang)
– Tây Phương Bạch Đế (nay ở xã Vĩnh Tế, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang)
– Nam Phương Xích Đế (nay ở xã Vĩnh Điều, huyện Giang Thành, tỉnh Kiên Giang)
– Bắc Phương Hắc Đế (nay ở xã Vĩnh Thạnh Trung, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang).
– Trung Ương Huỳnh Đế (nay ở xã An Hảo, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang)
Tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương gọi đó là Ông Thẻ hay Quan Thẻ và lập miếu thờ ở các địa điểm nói trên, đến nay vẫn còn.
Thứ hai, trong một tác phẩm thơ Nôm cổ (không rõ tác giả) thuật lại sự tích Đức Phật Thầy, có nhiều lần nhắc đến tục thờ Năm Ông. Tác phẩm nầy hiện có hai bản là Giảng Năm Ông do Nguyễn Hữu Hiệp sưu tầm và công bố năm 1974 và Kinh Năm Ông do Nguyễn Văn Sâm sưu tầm ở An Giang năm 2006 và công bố năm 2009. Hai bản có nhiều điểm khác nhau, nhưng chúng ta vẫn có thể dễ dàng nhận ra chúng chỉ là hai dị bản của cùng một tác phẩm. Xin trích một số câu quan trọng:
+ “Bao nhiêu thói dữ đừng màng
Đêm ngày niệm Phật kỉnh thờ Năm Ông”
+ “Kỉnh tin Năm Ông Ngũ Phương
Điều lành thời giữ chớ mong thói tà”
+ “Đêm ngày tin tưởng Năm Ông
Họa ra đặng thoát khỏi chưng nạn này”
[Nguyễn Hữu Hiệp 1974: 84-92]
Thứ ba, Sư Vãi Bán Khoai là một nhân vật truyền đạo ở Nam Kỳ những năm 1901 – 1902, không rõ lai lịch trước đó và hành tung sau đó, tuy nhiên vẫn được tín đồ xem là một trong những vị kế tục dòng chảy Bửu Sơn Kỳ Hương. Ông để lại bộ Sấm giảng người đời gồm 11 quyển, trong đó quyển thứ 9 có đoạn hướng dẫn việc thờ phượng Năm Ông như sau:
“Trong nhà lập mấy bàn thờ Cửu huyền thất tổ, ngoài thờ Năm Ông Thường đêm hương đốt đừng không Thời là lại có lưỡng thần chép biên”
[Sư Vãi Bán Khoai 1949: 99]
Thứ tư, hiện nay tại đình Tòng Sơn (xã Mỹ An Hưng A, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp) có bàn thờ Chư Vị Năm Ông. Tòng Sơn là quê hương của Đức Phật Thầy và ngôi đình nầy cũng nơi đầu tiên ông tá túc khi trở về làng (1849) sau nhiều năm lưu lạc. Dân gian kể rằng, ở tại đình được một thời gian, ông tiếp tục rời đi và để lại một cây cờ ngũ sắc được gọi là “cây thẻ Năm Ông”. Lúc đó, dịch bịnh đang xảy ra nên dân chúng kéo nhau đến thỉnh vải cờ để uống chữa bịnh: “Thiên hạ lúc đầu tới đình thỉnh còn được cờ, vài hôm sau hết cờ, họ đẽo tới cán cờ đem về thiêu, rồi hòa với nước mà uống, uống đâu hết đó” [Dật Sĩ & Nguyễn Văn Hầu 1972: 67].
3.2. Tứ Ân Hiếu Nghĩa
Đối với đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Năm Ông là đối tượng tín ngưỡng được thừa nhận chính thức. Tư gia của tín đồ có bàn thờ Năm Ông ở phía trước nhà, đối diện với bàn thờ chánh. Trên bàn thờ có bức vải hoặc giấy đỏ với kích thước lớn, ghi bốn chữ Hán “Ngũ Công Vương Phật” và tín đồ gọi theo cách dân gian là “Chư Vị Năm Ông”. Bàn thờ nầy nằm ở giữa so với chiều ngang của mặt tiền ngôi nhà, vì thế theo truyền thống nhà của tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa không làm cửa ở giữa mà chỉ làm cửa hai bên, ở giữa sẽ là vách mang chức năng như bình phong che cho bàn thờ Năm Ông [Tư liệu điền dã 2015]. Tuy nhiên tập quán nầy ngày nay đa phần không còn được giữ gìn.
Từ tục thờ Năm Ông, tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa có một số kiêng kỵ trong cách nói. Họ không nói từ “công” (trong danh hiệu Ngũ Công Vương Phật) mà phải nói trại là “cung” hoặc “cuông”, trường hợp một công đất thì gọi là “một vuông đất”. Không được dùng từ “đường” (trong danh hiệu Đường Công Vương Phật) mà gia vị đường phải gọi là “ngọt” và đường đi phải gọi là “lộ”…
Niềm tin Năm Ông được chính thức ghi nhận trong đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa sớm nhứt là từ thời Đức Bổn Sư (giáo chủ Ngô Lợi). Năm 1878, ông tổ chức khởi nghĩa chống Pháp ở Cai Lậy (nay thuộc tỉnh Tiền Giang), có rao giảng về quyền lực của Năm Ông. Điều nầy về sau được Nguyễn Liên Phong [1909: 68] thuật lại trong Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca:
“Sau thêm Ong, Khả, lẫy lừng Roi mây ngựa chuối giăng giăng khởi cùng Dối rằng phép lạ Năm Ông Bùa linh hiển hích súng không làm gì”
Hơn nửa thế kỷ sau, hình thức đó được lặp lại trong cuộc nổi dậy chống Pháp của ông Đạo Tưởng ở Tân Châu (nay thuộc tỉnh An Giang) năm 1939. Ông tên thật là Lâm Văn Quốc, thường gọi là Ba Quốc, biết võ nghệ và có học bùa ngãi. Năm 1928, ông lập am tu hành ở Tân Châu. Theo mô tả của Nguyễn Văn Kiềm [1966] thì ở giữa am thờ Quan Công, bên trái thờ Thần, bên phải thờ Thánh, đối diện phía ngoài thờ Chư Vị Năm Ông – hình thức thờ phượng với bốn bàn thờ như trễn rõ ràng là đặc trưng nhận diện của Tứ Ân Hiếu Nghĩa.
Thiên Địa hội là một tổ chức bí mật của người Trung Hoa với mục đích phản Thanh phục Minh, ra đời vào năm 1674 tức năm Khang Hy thứ 13 triều Thanh. Người Trung Hoa (chủ yếu là khu vực phía Nam) di cư đến Nam Bộ – Việt Nam vào thế kỷ XVII – XVIII đa phần vì lý do chánh trị, không bằng lòng sống trong sự quản lý của người Mãn, họ mang theo cả Thiên Địa hội trên hành trình di cư. Theo Sơn Nam [1997: 94], Chủ tỉnh Hà Tiên là Emile Puech (người từng ở Long Xuyên đàn áp cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa năm 1873) cho rằng Thiên Địa hội có mặt ở Nam Kỳ trước khi Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây. Sau khi Pháp đến, dần dần người Việt tham gia càng đông đảo vào Thiên Địa hội và nêu cao lý tưởng “phục Nam bài Pháp”. Mục đích của họ là đánh đuổi ách thống trị của Pháp và tái thiết chế độ quân chủ.
Sau cuộc nổi dậy tấn công Khám lớn Sài Gòn năm 1916 nhằm giải cứu Phan Xích Long – thủ lãnh của Hội Kín lúc bấy giờ, phía Pháp đã thu được lá cờ có ghi bốn chữ “Thánh Minh Vương Phật” từ trên xuống và bốn chữ “Bửu Sơn Kỳ Hương” ở bốn góc [Nguyễn Thanh Tiến 2005: 46]. Chúng ta biết, trước nay tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa đã quen thuộc với bốn câu sấm được lưu truyền là:
“Chữ Bửu là hiệu Phật Vương Chữ Sơn Phật Thầy tin tưởng phước dư Chữ Kỳ là hiệu Bổn Sư Chữ Hương Phật Trùm bốn chữ phải mang”
Nếu Đức Phật Thầy (Đoàn Minh Huyên), Đức Bổn Sư (Ngô Lợi), Đức Phật Trùm (Tà Pônh) là những nhân vật có thật trong lịch sử và tiếp nối dòng chảy Bửu Sơn Kỳ Hương, thì Đức Phật Vương lại hoàn toàn bí ẩn. Đức Phật Ngày tai, tại tổ đình của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa là chùa Tam Bửu (thị trấn Ba Chúc, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang) có ngôi long đình thờ Đức Phật Vương, bên trong là bảng gỗ lớn có bốn chữ “Bửu Sơn Kỳ Hương”. Sơn Nam [1971: 55] nhận định: “Năm Ông, còn gọi là Chư Vị Năm Ông là ông Quan Đế, Thái tử, Ông Châu, Trương Tiên, Linh Quan. […] Chùa thờ Năm Ông có thể là trụ sở bí mật của Thiên Địa hội”.
Khi nghiên cứu văn bản Kinh / Giảng Năm Ông như đã giới thiệu ở trên, chúng tôi chú ý đến câu: “Cờ đen vàng vải khá may / Cắm ngay giữa cửa khuyên trai đừng lầm” [Nguyễn Hữu Hiệp 1974: 84], hay: “Cờ đen vải trắng bìa vàng / Treo ngay giữa cửa đêm khuya giữ gìn” [Nguyễn Văn Sâm 2009: 13]. Nếu chỉ là một bộ kinh giảng khuyên tín đồ tu hành, thì tại sao lại có việc may lá cờ và treo giữa cửa, phải chăng là tín hiệu của một tổ chức?
Tương tự vậy, Huờn (Hoàn) Sanh kinh là một bản kinh bằng chữ Nôm có từ lúc Đức Bổn Sư mới mở đạo, trong đó có những đoạn cũng rất đáng lưu ý: “Huờn sanh trần thế, lập kế Thánh vương, thân thể nhiễu nhương, người đương thay đổi, phép trời làm nổi, thân thể nghiêm trang, hỡi kíp lo toan, thay đời lập trị, Phật trời hiệp nghị, có một hội nầy, có tớ có thầy, trang nghiêm tiên kiểng, chọn xây lựa tuyển, tống xuống học hành, công sự đã thành, thiên cơ sở định”. Đoạn kinh nói về việc “đổi đời” theo thuyết tận thế, khi đó đời Hạ nguơn kết thúc và hội Long Hoa mở ra để lập đời mới Thượng nguơn. Song, nội dung đoạn kinh không khó để chúng ta liên tưởng đến hoạt động chống Pháp, những nghĩa sĩ “lập kế Thánh vương” đánh đuổi giặc ngoại xâm để “huờn sanh trần thế”.
Ngoài ra, người tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa khi gia nhập đạo còn được phát cho một tờ lòng phái, hiểu như giấy chứng nhận nhập đạo. Ở Thiên Địa hội cũng phát tờ hồng tánh để chứng nhận người đã nhập hội. Mặc dù về nghi thức gia nhập Thiên Địa hội không có điểm tương tự Tứ Ân Hiếu Nghĩa, nhưng lá lòng phái có nhiều điểm giống nhau [Đinh Văn Hạnh 1999: 78].
5. Kết luận
Tục thờ cúng Ngũ Công Vương Phật – Chư Vị Năm Ông trong tôn giáo Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa là một hiện tượng đến nay gần như chưa có công trình nghiên cứu đề cập đến. Tục thờ nầy có nguồn gốc từ văn hóa Trung Hoa, khi truyền sang Việt Nam trước tiên được người Việt tiếp nhận trong phạm vi gia đình và xem Năm Ông như thần độ mạng cho gia chủ. Sau đó, Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa lại tiếp tục đưa Năm Ông hệ thống thờ tự của mình như một đối tượng tín ngưỡng quan trọng.
Hiện tượng nầy không chỉ phản ánh quá trình giao thoa văn hóa Việt – Hoa trên địa bàn, mà trong bối cảnh buổi đầu Nam Kỳ là thuộc địa, xu thế đề cao lý tưởng trung nghĩa trở nên nổi bật trong giới sĩ phu hơn bao giờ hết, vì thế chúng tôi cho rằng việc Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa chọn Năm Ông để thờ cúng không nằm ngoài xu thế đó. Ngoài ra, với những chứng cứ khá thuyết phục về mối quan hệ giữa hai tôn giáo nói trên với Thiên Địa hội, việc kháng Pháp thời bấy giờ.
Trong phạm vi kiến thức và khả năng có hạn, lại thêm nguồn tư liệu ít ỏi, bài viết của chúng tôi chỉ xin phân tích tục thờ cúng Năm Ông với tư cách là một hình thái tín ngưỡng – một khía cạnh trong văn hóa tôn giáo. được các nhà nghiên cứu làm sáng tỏ thêm.
VĨNH THÔNG
(Bài in trong Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: Triết lý nhân sinh của người dân Nam Bộ, Tập 1: Văn hóa nhận thức và tôn giáo tín ngưỡng, Nxb Đại học Cần Thơ, 2018 & sách Dấu ấn thượng châu thổ, Nxb Tổng hợp chúng tôi 2021)
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Dật Sĩ & Nguyễn Văn Hầu (1972), Thất Sơn mầu nhiệm, tái bản, Nxb Từ Tâm.
2. Đinh Văn Hạnh (1999), Đạo Tứ Ấn Hiếu Nghĩa của người Việt Nam Bộ (1867-1975), Nxb Trẻ.
3. Nguyễn Hữu Hiệp (1974), Tiền giảng Đức Phật Thầy Tây An, Nxb Diễm Chi.
4. Nguyễn Liên Phong (1909), Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca, Nxb Phát Toán.
5. Nguyễn Văn Kiềm (1966), Tân Châu (1870 – 1964), Tác giả tự xuất bản.
6. Nguyễn Văn Sâm (2009), Kinh Năm Ông, Bản điện tử.
7. Sơn Nam (1971), Miền Nam đầu thế kỷ XX: Thiên Địa hội và cuộc Minh tân, Nxb Phù Sa.
8. Sơn Nam (1997), Cá tính Miền Nam, Nxb Trẻ.
9. Nguyễn Thanh Tiến (2005), Hội kín ở Nam Kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm TP.HCM.
10. Sư Vãi Bán Khoai (1949), Sấm giảng người đời, Bản photocopy.
11. Tạ Chí Đại Trường (2014), Thần, người và đất Việt, tái bản, Nxb Tri thức.
Bạn đang xem bài viết Lời Kêu Gọi Hùn Phước Xây Tháp Tứ Ân Thờ Xá Lợi Của Sư Bà Hải Triều Âm trên website Iseeacademy.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!