Xem Nhiều 6/2023 #️ Mâm Cúng Đất Giống Người Xứ Quảng # Top 13 Trend | Iseeacademy.com

Xem Nhiều 6/2023 # Mâm Cúng Đất Giống Người Xứ Quảng # Top 13 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Mâm Cúng Đất Giống Người Xứ Quảng mới nhất trên website Iseeacademy.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Vào tháng hai âm lịch cỡ này là đi chợ cúng đất. Đi chợ mua đồ cúng thì tôi thích mua sắm cúng đất nhất. Bởi mua sắm cúng đất có gì đó mang hồn vía người đất Quảng, đúng kiểu “chặt to kho mặn” của người đất Quảng.

Mâm cúng đất có thể chia thành các nhóm sau:

* Hoa quả áo giấy: Món này thì chỉ mua sắm, không phải làm gì. Chọn trái cây tươi màu. Đu đủ, xoài, mãng cầu, sapuche, quýt, thanh long, mỗi thứ một vài quả. Mâm cúng đẹp nhờ hoa quả xanh tươi. Hoa cúng đất thường gồm những hoa đơn giản như hoa phượng, hoa cúc, hoa vạn thọ,… Có hoa vạn thọ để cúng là thích nhất, hoa cho mùi thơm khắp nhà, cái mùi thơm vạn thọ, thiệt thích, thơm cả lá, cả hoa.

Thương, khi nhìn trái đậu nhà người vừa lớn, vừa xanh, xanh từ trong từng hạt đậu nảy ra đến vỏ.

Nhớ, hạt đậu quê mình nhỏ tẻo teo, vàng từ vỏ vàng vô. Thương đất quê mình sao khó nghiệt khó ngã vậy ta, hạt đậu cũng không đủ chuẩn.

Các món sắn, khoai, đậu, bắp… đó thiếu bớt một thứ cũng không sao, cốt ở lòng thành.

* Tiếp tới các món luôn phải có của mâm cúng đất: Đĩa rau luộc, chén mắm cái, tợ thịt luộc, trứng, tôm, cua, dĩa xôi, chén chè. Đây là phần lễ, miếng thịt heo luộc phải cắt ngay ngắn trên đĩa, vài hạt muối sống, kèm con dao nhỏ.

Phần lễ mỗi ngày một nhiều hơn, phong phú hơn, thêm con gà trống rồi ngoài thịt heo luộc còn có thịt heo nướng, cá nướng… Thời bao cấp, mâm lễ có tợ thịt heo là đã đầy đủ ý nghĩa.

* Đến mâm cơm thì tha hồ biến tấu với mâm cơm cúng đất. Cơm trắng, đĩa thịt luộc xắt, thịt rang, cá chiên, cá kho, ram chiên, món xào rau đậu, món canh,.. Canh thì có canh khổ qua nhồi thịt, canh khoai sọ hầm xương. Đặc biệt thường là món canh khoai môn hầm xương do củ khoai được đào lên từ đất phải có để cúng thần đất.

Có thời các bà các chị kiêng canh khổ qua do để trại qua chữ “khổ quá”. Không đúng lắm, tôi thấy giỗ quảy nhà tôi hay quê tôi món canh khổ qua lúc nào cũng đầu bảng.

Vậy là mâm cúng đã đủ lễ. Sản vật từ trên đất dưới sông đã đủ. Bày cúng thôi, càng nhiều thì càng đúng với câu “mâm cao cỗ đầy” kính dâng thổ công, thần hoàng, bổn xứ. Cầu một năm mưa thuận, gió hoà, mua may, bán đắt (đông người mua chớ không phải giá đắt).

Ấy, vì mâm cúng đất phong phú vậy mà không phải cầu kỳ tỉa tót. Có cả món dân dã nhà nghèo, khoai sắn luộc tới rau lang, đến các món được chặt to kho mặn nên tôi nói mâm cúng đất giống tính cách người xứ Quảng là vậy.

Lễ Vật Ăn Hỏi Theo Người Dân Xứ Quảng

Đối với đám cưới của người Việt Nam đều cần có những lễ vật hay còn gọi là sính lễ của nhà trai đem sang nhà gái. Tuy nhiên, tùy theo mỗi vùng miền mà sẽ có những lễ vật đặc trưng riêng biệt. Bài viết này nhà hàng tiệc cưới Thảo Nguyên muốn chia sẻ đến các bạn một vài thông tin về các bước chuẩn bị lễ vật ăn hỏi theo người miền Trung.

Chuẩn bị lễ vật ăn hỏi của người miền Trung không quá phức tạp như người miền bắc hoặc miền nam Việt Nam. Do một phần phụ thuộc vào những khó khăn mà người miền Trung đã trải qua hàng trăm năm cũng như điều kiện khó khăn của người miền Trung. Nhưng hầu như những nghi lễ ăn hỏi của người miền trung đều có chung một số lễ vật như sau:

1. Trầu cau

Trầu cau được xem là một phần không thể thiếu trong bất cứ 1 lễ ăn hỏi nào của người Việt Nam. Đây chính là truyền thống có từ lâu đời và cho tới nay buồng cau đẹp cũng là một lễ vật không thể thiếu. Bạn cũng phải cần nhắc về tính kinh tế hay hoàn cảnh của nhà gái mà nên mua bộ cau cho hợp lý.

2. Bánh phu thê

Ngoài trầu cau thì mâm bánh phu thê là lễ vật phổ biến ở tất cả vùng miền. Bánh phu thê chính là lời hứa thủy chung son sắt của chồng đối với vợ sắp cưới của mình. Chọn bánh phu thê các bạn nên chọn loại bánh tốt vì đời người đám cưới chỉ có một. Thường số lượng bánh phu thê là 51 bánh.

4, Lễ vật thách cưới khác

Hầu như trong mỗi lễ cưới của hai bên gia đình nội ngoại đều sẽ có buổi họp mặt để bàn về lễ vật thách cưới bao gồm: có thể là lợn quay, đầu lợn, gà….

Dù đặt nhà hàng tiệc cưới hay tổ chức tiệc cưới thì ở địa điểm nào cũng vẫn không thể thiếu những nghi thức này được tổ chức tại nhà. Tùy vào phong tục của địa phương cũng như điều kiện thách cưới mà bạn chuẩn bị lễ vật.

Liên hệ DỊCH VỤ ẨM THỰC TIỆC CƯỚI THẢO NGUYÊN

Địa chỉ : Tổ 7 Thôn Kỳ Lam – Xã Điện Thọ – Huyện Điện Bàn – Tỉnh Quảng Nam

Địa chỉ : dịch vụ ẩm thực tiệc cưới thảo nguyên

tag: dich vu cuoi hoi

Tục Cúng Đất Vùng Ngũ Quảng – Huy Hoang Design

Vì sao cúng đất chỉ có ở vùng Ngũ Quảng?

Tương truyền, khi Công chúa Huyền Trân được gả cho vua Chế Mân của nước Chiêm Thành vào năm 1306, Đại Việt ta nhận được sính lễ từ vua Chăm là vùng đất 2 châu: Châu Ô, Châu Lý (Châu Rí). Tính theo ngày nay là vùng đất phía Nam tỉnh Quảng Bình cho đến phía Bắc tỉnh Quảng Ngãi. Như vậy, cư dân ở vùng đất này vốn là cư dân của Vương quốc Chămpa, theo suy nghĩ của người Đại Việt lúc bấy giờ vùng đất này là vùng đất xa lạ, họ chưa quen thổ nhưỡng, khí hậu, địa hình cho nên khi vào đây lập nghiệp họ mang trong mình sự tôn kính đối với người dân bản địa và các vị thần linh ở đây. Từ đó, họ có lệ cúng Đất như là việc mong thần linh và những linh hồn người bản địa từng cư ngụ ở đây phù hộ độ trì, chấp thuận cho sự có mặt làm ăn sinh sống của cư dân Đại Việt ta.

Cúng đất ngày xưa

Hễ đến tháng tám âm lịch, không như bao người khác nhớ đến cái Tết Trung thu, tôi lại nhớ mùa cúng đất. Bởi thời thơ ấu của tôi, dưới thời bao cấp, trẻ quê lấy gì mà ăn Tết Trung thu! Ăn Tết Nguyên đán mà còn chưa đàng hoàng. Trung thu nông thôn sẵn có “ông trăng”, làm gì có đèn ông sao mà rước…Khá lắm, cha mẹ mua cho dăm cái kẹo loại trẻ con bây giờ mời không thèm đụng.

Nhưng cúng đất thì khác. Gia đình nào cũng phải làm cỗ bàn tươm tất. Không thể thiếu con gà trống to hết cỡ. Rồi nem, chả, cá tôm. Ngày cúng đất trong nhà tấp nập khách khứa ra vào. Mâm thớt khua chí chát. Sau đó là đến chuyện trả nợ miệng. Ba tôi lại được bà con xóm giềng mời đi ăn cúng đất giáp vòng cho đến hết tháng tám. Tất nhiên ông dẫn tôi đi cùng. Tôi sướng như lên tiên. Hết tháng tám, tôi lại trở về với bữa cơm độn khoai sắn như mọi người. Thế nên thằng bé “xấu máu ăn” như tôi nhớ mùa cúng đất (để được ăn ngon) là phải thôi!

Thông thường gia đình lựa chọn ngày tốt, sắm sửa lễ vật để cúng đất, còn gọi là cúng Thần Hoàng Bổn Xứ. Tùy theo mỗi vùng miền, mà trên bàn lễ sắp đặt khác nhau. Theo các “bô lão”, trên bàn thờ phải có hai mâm với hai bát hương riêng. Một bàn cúng Thần Hoàng Bổn Xứ là các vị thần chức lớn cai quản trong địa phương. Bàn kia là cúng mâm hội đồng, bao gồm các vị thần có chức sắc nhỏ hơn và các cô hồn cát đẳng, không nơi nương tựa…

Trên bàn cúng đất phải đầy đủ bát hương, chân đèn, chén nước, bài trí theo “thiết kế” của người xưa như “đông bình tây quả”, hương đèn, vàng bạc, giấy tiền, giấy đất, hạt nổ (gạo muối, lương khô)… Phẩm vật thường có cơm, xôi, chè, thịt heo, con gà luộc, cá chiên, các thứ xào, trộn, bánh tráng nướng… Bàn hạ còn có thêm một đĩa cua luộc, cá nướng và một bát cháo thánh (cháo trắng)… Mấy món không thể thiếu được là đĩa sắn, khoai, đậu, môn, rau khoai luộc, chén nước ruốc… Ngoài ra, còn có một bộ đồ thần để đốt. Trước khi cúng, gia chủ còn làm một cái “xà lắt” bằng bẹ chuối treo sát chân bàn. Cúng xong, gia chủ bỏ các món ăn vào mỗi thứ một ít. Người nhà sẽ mang ra ngã ba đường cái để treo.

Bàn đặt ở trước nhà, gia chủ đứng từ trong nhà lạy ra và khấn vái tên đầy đủ các thiên thần cai quản trời đất, vùng đất cụ thể, nhà cửa của gia chủ… Đặc biệt còn dâng cúng cả những cô hồn người Chăm… từng cư trú trên địa bàn Huế, cũng như những hài cốt tiềm ẩn trong đất. Cũng chính vì có đối tượng là cô hồn người dân tộc thiểu số nên mới bày biện món rau khoai luộc chấm nước ruốc, xâu cá tôm nướng.

Cúng đất ngày nay

Vừa mới sang tháng tám âm lịch có vài ngày tôi đã được mời đi ăn cỗ cúng đất. Có ngày tôi phải “vác bụng” chạy sô đến ba nơi. Khi tàn tiệc lại được nghe bạn bè chất vấn “Nhà cậu bao giờ cúng đất?”, “Cơ quan cậu cúng đất chưa?”. Thời nay “thoáng” nên nhà nhà cúng đất, các cơ quan, công sở cũng vậy.

Cúng đất thời hiện đại rất linh đình, hàng mã ngũ kim đẹp rực rỡ, đốt hàng giờ liền không hết. Sắm sửa cỗ bàn đã có nhà hàng “di động” đến hợp đồng lo liệu. Vừa thắp nhang lễ bái đã thấy bia bọt lai láng trên hai bàn thượng hạ. Rượu thì rượu ngoại. Thế mới hay đời sống người dân ta đi lên, các ông thần bước sang thế kỷ XXI “ ăn theo” sướng thật!

Cúng đất bây giờ là dịp để mời mọc đồng chí, đồng nghiệp. Dân mua bán kinh doanh thì PR đối tác, bạn hàng. Có anh bạn tiết lộ, một tháng cúng đất bỏ cơm nhà hết 25 bữa. Có ngày chạy sô hai, ba nơi. Anh bạn bảo: Không đi không được, “sợ mếch lòng”.

Những người làm hàng mã vượt “chỉ tiêu” doanh thu nhờ cúng đất đã đành. Cả làng chuyên làm hàng hột nổ ( làng Sình – xã Phú Mậu, Phú Vang, Thừa Thiên Huế) cũng kiếm chút cháo bù lỗ thời gian nông nhàn. Ngoài thị trường giá gà trống lên vùn vụt như giá vàng phi mã. Riêng cái khoản coi giò gà đoán tài lộc của mấy ông thầy bói cũng ăn nên làm ra.

Thiết nghĩ, cúng đất là dịp để gia đình, bạn bè họp mặt sau khi mùa vụ đã gặt hái xong. Tục lệ này nhằm thắt chặt tình cộng đồng hàng xóm, láng giềng. Cúng đất còn là dịp để các bà, các chị thể hiện sự khéo léo, giỏi giang trổ tài nữ công gia chánh. Ngày xưa tiệc tùng trong ngày cúng đất chỉ mang tính nghi lễ, đơn sơ chứ không có lệ “chiếu trên, chiếu dưới” như bây giờ.

Vũ Hào (theo baotintuc.com)

Gia Đình Người Quảng Cúng Quảy Hằng Năm

1. Thờ cúng tổ tiên là một nét đẹp văn hóa của gia đình người Việt nói chung, gia đình người Quảng nói riêng. Hằng năm các gia đình người Việt/người Quảng luôn có đám giỗ để tưởng nhớ những người thân quá cố. Thường người mới từ trần thì được con cháu cúng quảy riêng theo lệ giỗ ngày sống chứ không giỗ ngày chết.

Nhưng trải qua vài đời thì những người mất ở thời điểm gần nhau trong tháng/trong quý được giỗ chung một ngày – gọi là giỗ hội. Tuy nhiên việc cúng quảy hằng năm trong gia đình người Việt/người Quảng không thu hẹp trong các đám giỗ người thân quá cố mà còn mở rộng theo tín ngưỡng dân gian – chứ không chỉ theo tín ngưỡng Phật giáo, nổi bật là việc cúng rằm và mồng một hằng tháng, thường là vào trước đó một ngày – tức là vào mười bốn và hăm chín/ba mươi âm lịch.

Như vậy mười hai ngày rằm trong năm các gia đình người Quảng đều cúng, nhưng rằm tháng giêng, rằm tháng bảy và rằm tháng mười được coi trọng hơn, cúng quảy bài bản hơn. Theo quan sát của người viết bài này thì ngày nay các gia đình người Quảng đang có đôi chút thay đổi:

Rằm tháng mười dường như không còn mười người mười quảy nữa – theo nghĩa không còn được coi trọng hơn các ngày rằm khác nữa, trong khi đó rằm tháng bảy gắn liền với mùa Vu Lan báo hiếu thì ngày càng được các gia đình người Quảng đặc biệt quan tâm. Cũng do quan niệm rằm tháng bảy là ngày của cô hồn thập loại chúng sinh nên khi cúng rằm tháng bảy, các gia đình người Quảng đều không quên một tô cháo trắng…

Minh họa: HOÀNG ĐẶNG

2. Việc cúng mồng một cũng có điểm nhấn như vậy. Mười hai ngày mồng một trong năm đều cúng, nhưng mồng một tháng giêng mới là ngày quan trọng nhất đối với gia đình người Việt nói chung, gia đình người Quảng nói riêng. Trong chữ Hán, nguyên thuộc bộ nhân nghĩa là đứng đầu – trạng nguyên là người đỗ đầu khoa thi đình; đêm rằm tháng giêng được gọi là nguyên tiêu – nguyên là tháng đầu năm, tiêu thuộc bộ thủ là đêm; còn sáng mồng một tháng giêng được gọi là nguyên đán – lúc trời mới sáng gọi là đán thuộc bộ nhật.

Các gia đình người Quảng thường rước ông bà vào ngày ba mươi tháng chạp và cúng năm mới vào sáng mồng một tháng giêng. Tuy nhiên thật sự thiêng liêng trong tâm thức người Quảng là lễ cúng giao thừa khuya ba mươi rạng mồng một tết, với cảm xúc “giã từ năm cũ bâng khuâng/ đã nghe xuân mới lâng lâng lạ thường” (thơ Tố Hữu).

Đây là thời điểm đoàn tụ gia đình không chỉ với người đang sống mà với cả người đã khuất. Cũng chính vì lẽ đó mà người Việt nói chung, người Quảng nói riêng khó nói lời chia tay với Tết ta để chỉ ăn Tết tây như một số người từng đề xuất.

Nói đến chuyện ăn Tết, nhiều người cho rằng ngày nay chủ yếu là chơi Tết chứ ăn Tết thì không còn cảm giác háo hức như xưa. Nhưng đó là nói chung chứ với không ít gia đình người Quảng đang đầu tắt mặt tối chật vật mưu sinh kiếm sống, ba ngày Tết cũng là dịp trước cúng sau cấp để được ăn tươi hơn một chút. Điều đáng chú ý là các gia đình người Quảng đã khá giả hay còn cơ cực đều dâng cúng tổ tiên một số món ăn đậm đà chất Quảng, trong đó có bánh tét – chứ không phải bánh chưng, và bánh tổ – còn gọi là bánh ổ.

3. Nói đến món ăn đậm đà chất Quảng còn có thể kể đến bánh ú tro thường không có nhân và được chấm với đường cát trắng – là loại bánh có khối hình tam giác được các gia đình người Quảng dâng cúng tổ tiên hằng năm vào dịp Tết đoan ngọ mồng năm tháng năm âm lịch – cho nên còn gọi là tết đoan ngũ.

Người Quảng cúng mồng năm tháng năm vào buổi trưa, bởi đoan thuộc bộ lập có nghĩa là đầu mối, còn ngọ thuộc bộ thập là giữa trưa. Nếu gọi là cả nhà ăn Tết thì Tết đoan ngọ cũng là dịp để gia đình đoàn tụ và vào thời điểm này dương khí lên cao nhất nên cùng nhau  ăn bánh ú tro – tro vốn dĩ có nhiều tính âm – sẽ giúp cân bằng âm dương rất có lợi cho sức khỏe con người.

Trước đây còn có tục nấu lá mồng năm, hái đúng dịp trưa (chính ngọ) – thực chất là một số dược liệu – để tắm cho trẻ con, nhưng ngày nay hầu như không còn nhiều gia đình người Quảng giữ được tục tắm nước lá này.

Nhưng dùng lá mồng năm để uống thay chè, thì rất nhiều gia đình vùng quê còn lưu giữ. Dân gian tin rằng, lá mùng năm có tác dụng chữa bệnh. Và theo Đông y, đó không phải là niềm tin mù quáng, bởi  hầu hết đó là những loại cây thuốc Nam như  mã đề, râu bắp, gương sen, mơ, cỏ ống, lá sả, bạc hà, é, tía tô, gừng, dủ dẻ, ổi, tim sen, vông… dùng để chữa nhiều loại bệnh thường gặp.

4. Tháng chạp âm lịch của gia đình người Việt nói chung, gia đình người Quảng nói riêng có một thời điểm vô cùng độc đáo và hết sức nhân văn: đêm hăm hai rạng sáng hăm ba – cúng đưa ông Táo về trời. Theo truyền thuyết, đó là lúc ông Táo-chồng-sau của bà Táo hối hả cưỡi cá chép về chầu trời, và chính trong suốt một tuần lễ mà người-thứ-ba tạm thời vắng mặt, ông Táo-chồng-trước của bà Táo mới có cơ hội bày tỏ sự ăn năn về lỗi lầm “chết người” mang hơi hướng bạo lực gia đình mà ông từng mắc phải năm xưa. Dường như bảy ngày đêm là quá ít để người đàn ông này có thể bộc bạch nỗi niềm cho đến đầu đến đũa, nên đêm hăm hai rạng sáng hăm ba năm nào ông Táo-chồng-sau của bà Táo cũng phải bấm bụng một mình đi xa – cả ngàn năm nay rồi và không chừng cả ngàn năm nữa…

Có thể cúng ông Táo vào sáng hăm ba nhưng không được cúng sau trưa, và dẫu gia đình khá giả hay cơ cực thì lễ vật dâng cúng không thể thiếu là ba bát đường đen với ba cái bánh tráng nướng. Người Quảng cũng không có lệ cúng cá chép để rồi phóng sinh, thay vào đó chỉ là con cá chép… bằng giấy làm phương tiện đi lại cho ông Táo lên thiên đình – lễ tuy bất túc tâm thành hữu dư.

Xin nói thêm làng gốm Thanh Hà ở Hội An có lò nặn tượng Táo quân đã hơn một trăm năm đỏ lửa, chứng tỏ ít nhất một thế kỷ qua, lễ đưa ông Táo về trời vẫn luôn đồng hành cùng người Quảng đương đại.

5. Thật ra cúng rằm hay cúng mồng một, cúng Tết nguyên đán, cúng Tết nguyên tiêu hay cúng Tết đoan ngọ, hay cúng ông Táo… là câu chuyện cúng quảy chung của người Việt chứ không riêng gì người Quảng – đương nhiên cũng có một chút khác biệt trong lễ vật dâng cúng giữa người Việt Đàng Ngoài và người Việt Đàng Trong.

Người viết bài này xin được dừng câu chuyện cúng quảy hằng năm của gia đình người Quảng bằng một lễ cúng riêng có của người Việt từ Quảng Bình trở vào: cúng tá thổ hay còn gọi là cúng đất – mỗi năm một lần trong tháng hai âm lịch, chủ yếu từ mồng mười đến cuối tháng, lễ vật dâng cúng gồm toàn món ăn đặc trưng Chiêm Thành như cua luộc nguyên con, mắm cái, khoai lang, rau lang luộc, đậu phụng, mía cây róc vỏ cắt từng đốt… thể hiện cách ứng xử khôn ngoan nhạy cảm và sự khiêm nhường của người Quảng xưa tự nhận mình chỉ là người tá thổ/thuê đất – tá thuộc bộ nhân nghĩa là thuê/mượn, tức không hề quên đây nguyên là đất Champa. Ngày trước trong lễ cúng đất còn có màn “kịch câm”: hai vợ chồng đóng vai hai người Chăm, cầm một cây sào, làm động tác đi đo đất…

Có thể nói đây là một tập tục độc đáo của người Quảng xưa trong quá trình quảng-nam-mở-cõi, vừa đậm đà màu sắc tâm linh thành kính và thấm đẫm chất chính trị vừa mang đậm dấu ấn tâm lý của những người mới xa quê, buổi đầu mọi thứ đều thấy lạ, “tới đây sông nước lạ lùng/ con chim kêu phải sợ con cá vùng phải kiêng” (ca dao đất Quảng).

BÙI VĂN TIẾNG

Bạn đang xem bài viết Mâm Cúng Đất Giống Người Xứ Quảng trên website Iseeacademy.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!