Xem Nhiều 3/2023 #️ Miếu Bà Bình Nhâm, Một Di Tích Nhiều Giá Trị # Top 7 Trend | Iseeacademy.com

Xem Nhiều 3/2023 # Miếu Bà Bình Nhâm, Một Di Tích Nhiều Giá Trị # Top 7 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Miếu Bà Bình Nhâm, Một Di Tích Nhiều Giá Trị mới nhất trên website Iseeacademy.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Miếu Bà Bình Nhâm, một di tích nhiều giá trị

Hạ Trúc

25/07/2012

1/ Lịch sử hình thành

Bình Nhâm là một xã của Thị xã Thuận An, là vùng đất nổi tiếng với những vườn cây trĩu quả, với đặc sản sầu riêng, măng cụt, với bánh bèo bì, với khu du lịch Cầu Ngang, là điểm đến của nhiều tour du lịch sinh thái, miệt vườn trong và ngoài tỉnh.

Năm 1914, bà con nhân dân vùng Bình Nhâm hiện nay đã góp công, góp của cùng nhau xây dựng ngôi miếu thờ bà chúa chung của cả vùng – bà Chúa Xứ. Tương truyền Bà vốn là một người con của đất Bình Nhâm, sinh ra và lớn lên trên mảnh đất này, có nhiều công lao đóng góp để xây dựng quê hương mình nên khi bà mất, nhân dân tưởng nhớ công ơn Bà đã lập miếu thờ. Không ai nhớ tên, tuổi của Bà, trong tâm thức của nhân dân, Bà được đồng nhất với Bà Chúa Xứ – bà mẹ xứ sở của người Việt, người bảo vệ quê hương, thôn ấp. Ban đầu, miếu chỉ là một gian nhà nhỏ bằng thân cây, lợp lá đơn sơ, tọa lạc tại ấp Bình Phước, xã Bình Nhâm. Năm 2002, dưới sự phát động của ban trị sự miếu, nhân dân trong vùng đã chung tay đóng góp để xây dựng lại ngôi miếu cho khang trang, to đẹp hơn. Hai nhà mạnh thường quân đóng góp nhiều nhất lúc bấy giờ là ông Tư Trị (chủ hãng cám Bình Nhâm) và ông Năm Bình. Từ đó, miếu bà Bình Nhâm có diện mạo như ngày hôm nay.

Là một trong số ít miếu có tuổi đời gần 100 năm, nguyên vẹn sau hai cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, chứng kiến ngày độc lập cũng như sự đổi mới của quê hương, đất nước, miếu Bà Bình Nhâm thực sự là một chứng nhân lịch sử, là nơi lưu giữ nhiều giá trị lịch sử, văn hóa.

2/ Giá trị vật thể

Giống như ở đình, khi bước vào miếu chúng ta thấy một tấm bình phong án ngữ. Trên tấm bình phong, phía trước đắp nổi hình Ông Hổ, phía sau đắp nổi hình tượng Rồng uốn lượn trong mây. Bốn cột của bình phong đều có câu đối bằng chữ Hán.

Miếu Bà Bình Nhâm là một trong ít ngôi miếu có kiến trúc to, đẹp theo kiểu sắp đọi, gồm hai nếp nhà xếp liền nhau. Gian nhà võ ca, là nơi để các đoàn hát bóng biểu diễn, được xây dựng sau này, kiến trúc mới hơn, cột kèo bằng xi măng, mái được lợp bằng ngói ống kiểu Trung Quốc, diềm ngói và hàng ngói men xanh. Nóc mái đắp nổi hình thuyền, trên có gắn tượng lưỡng long chầu nguyệt bằng gốm men xanh. Dọc theo đường bờ nóc là các tượng tráng men nhiều màu sắc: ông mặt trời, bà mặt trăng, cá hóa rồng tượng trưng cho âm dương hòa hợp, sung túc, thiêng liêng.

Gian chánh điện – nơi đặt các trang thờ Bà, Tả ban, Hữu ban, Tiền hiền, Hậu hiền, mái lợp ngói âm dương được nâng đỡ bằng 4 cột gỗ lớn có tuổi đời cả trăm năm. Trong hai gian chánh điện và gian võ ca gồm tất cả 8 cặp câu đối chữ Hán, một cặp câu đối tiếng Việt, 6 bức hoành phi lớn, 6 khám thờ. Các chữ được đắp nổi hoặc chạm trổ trên nền hoa văn rồng, phụng, rùa, sen, sóng, nước,… sơn son thiếp vàng, vừa có ý nghĩa ca ngợi thần thánh, vừa có giá trị nghệ thuật thư pháp và thể hiện nghệ thuật chạm gỗ tinh xảo của người thợ Bình Dương. Những đồ dùng trong miếu: lư hương, bình bông, chân đèn… đều là những sản phẩm gốm của đất Bình Dương. Ngoài ra, trong khuôn viên miếu còn có nhà trù rộng rãi là nơi ban trị sự miếu tổ chức hội họp và là nơi tiếp đãi quan khách gần xa trong những dịp vía Bà

Miếu Bà Bình Nhâm là một ngôi miếu có kiến trúc đẹp, độc đáo, là sự kết hợp giữa gỗ và gạch ngói, giữa nghệ thuật chạm khắc cùng nghệ thuật đắp nổi, là sự kết hợp văn hóa giữa người Việt, người Hoa, giữa truyền thống và hiện đại, là minh chứng cho sự tài hoa, khéo léo của người thợ đất Bình Dương.

3/ Giá trị phi vật thể

Giá trị phi vật thể của miếu Bà trước hết đó là giá trị nhân văn, thể hiện niềm mong ước mà cha ông đã gửi gắm qua những câu đối, những bức hoành phi viết bằng chữ Hán

            - Gian võ ca.

Hoành phi:                                德 配 天

Đức phối thiên

Hoành phi bên phải:                  元 戎 大 德

                                                Nguyên nhung đại đức

Hoành phi giữa:                        元 戎 聖 德

                                                Nguyên nhung thánh đức

Câu đối:                        主 聖 南 邦 蕩 蕩 威 恩 仁 護 國

                                    Chúa thánh nam bang đãng đãng uy ân nhân hộ quốc

                                    處 神 越 地 洋 洋 盛 德 義 庇 民 

                                    Xứ thần việt địa dương dương thịnh đức nghĩa tí dân.

Hoành phi bên trái:                    靈 通 濩 境

                                                Linh thông hoạch cảnh

Hoành phi:                                萬 古 英 靈

                                                Vạn cổ anh linh

Câu đối:                        富 壽 康 寧 總 是 仁 慈 成 事 業

                                    Phú thọ khang ninh tổng thị nhân từ thành sự nghiệp

                                    貴 財 利 樂 皆 由 忠 孝 永 基 圖

                                    Quý tài lợi lạc giai do trung hiếu vĩnh cơ  đồ.

Câu đối:                        顯 聖 南 邦 濩 國 康 寧 乘 萬 古

                                    Hiển thánh nam bang hoạch quốc khang ninh thừa vạn cổ

                                    出 神 越 地 庇 民 昌 阜 立 千 秋

                                    Xuất thần việt địa tí dân xương phụ lập thiên thu.

– Gian chánh điện

Hoành phi:                    恩 光 普 照

                                    Ân quang phổ chiếu

Câu đối:                        寶 鼎 香 飄 氣 結 成 金 鳳 彩

                                    Bảo đỉnh hương phiêu khí kết thành kim phụng thái

                                    銀 臺 燭 耀 祥 光 吐  出 玉 龍

                                    Ngân đài chúc diệu tường quang thổ xuất ngọc long

Hoành phi:                    濩 祜 村中

                                    Hoạch hỗ thôn trung     

Câu đối             聖 德 杜 千 秋 永 保 黎 民 常 樂 業

                                    Thánh đức đỗ thiên thu vĩnh bảo lê dân thường lạc nghiệp

                                    神 恩 靈 萬 載 綿 長 村 社 共 安 居

                                    Thần ân linh vạn tải miên trường thôn xã cộng an cư      

Câu đối             主 忠 信 享 克 誠 禱 必 通 求 必 應

                                    Chủ trung tín hưởng khắc thành đảo tất thông cầu tất ứng

                                    使 方 民 愛 其 賜 赫 厥 聲 濯 厥 靈

                                    Sứ phương dân ái kỳ tứ hách quyết thanh trạc quyết linh

Bên phải là ban 前 賢

                                    Tiền hiền

Câu đối:                        神 恩 普(博) 鄉 中 鄰 邑 並 康 寧

                                    Thần ân phổ (bác) hương trung lân ấp tịnh khang ninh

                                    聖 德 霑 濡 內 籍 外 民 同 富 壽

                                    Thánh đức triêm nhu nội tịch ngoại dân đồng phú thọ

Bên trái là ban   後賢

                                    Hậu hiền

Câu đối:                        主 增 元 君 仁 (?) 三 江 安 世 界

                                    Chúa tăng nguyên quân nhân (?) tam giang an thế giới

                                    處 尊 聖 德 施 恩 四 海 顯 乾 坤

                           Xứ tôn thánh đức thi ân tứ hải hiển càn khôn

Bài vị:                           主處娘娘

                                    Chúa xứ nương nương

Bài vị Tả ban     :           令 四 男 証 明 降 下                  

                                    Lệnh tứ nam chứng minh giáng hạ

Bài vị Hữu ban: 令 姑 証 明 降 下

                                    Lệnh cô chứng minh giáng hạ

Giá trị văn hóa phi vật thể còn được thể hiện ở lệ cúng hàng năm từ tối ngày 13/8 đến trưa ngày 14/8. Mỗi lần cúng miếu thực sự là ngày hội của bà con quanh vùng. Mặc dù tổ chức khá bài bản, quy mô với những lễ như Lễ An vị, Túc yết, hát bóng, hát Địa Nàng nhưng cũng như phần đa miếu trên địa bàn Bình Dương, nghi lễ ở miếu diễn ra khá đơn giản, chú trọng vào phần hội hơn là phần lễ và có những nét khác biệt mang đặc trưng của lễ cúng miếu. Ngay từ ngày 10/8, ban quý tế đình đã họp mặt kết toán tài chính năm cũ và dựa vào nguồn kinh phí nhiều ít để tổ chức. Cũng trong ngày này, ban quý tế tổ chức phân công nhiệm vụ mọi người vào từng ban cụ thể như ban tế, ban tiếp tân, ban tài chính, ban nấu ăn… và mọi người cùng nhau quét dọn, rau nửa bụi bặm trong và ngoài miếu. Mọi khâu chuẩn bị tới sáng 13 là hoàn thành, bà con trong thôn ngoài xóm ra vào tấp nập, ai cũng muốn chung tay dọn dẹp, trang hoàng miếu để đón Bà. Chương trình văn nghệ gồm các tiết mục văn nghệ của Hội người cao tuổi, của các nhóm, CLB Đờn ca tài tử của địa phương tới góp vui càng làm cho không khí nơi miếu nhộn nhịp, vui vẻ. Lễ Túc yết vào 12 giờ khuya. Lễ vật là một con heo màu trắng được tắm rửa sạch sẽ, dắt lên “ra mắt” Bà rồi mới đem yết. Người ta đem một ít huyết, 1 nhúm lông heo chôn ở gốc cây bất kỳ trong khuôn viên miếu; một miếng thịt sống đặt ở bàn Ông Hổ; những ban khác đặt mỗi ban một “tợ” thịt luộc.

Chương trình chiếm nhiều thời gian nhất, được mong đợi nhất, thể hiện rõ nhất sự khác biệt của cúng miếu với cúng đình là Hát/múa bóng rỗi và chặp Địa Nàng. Từ gần 30 năm nay, người đứng ra Hát rỗi ở miếu Bình Nhâm chỉ có một, đó là bà Ba Đón. Bà năm nay đã 94 tuổi, là người con của đất Bình Nhâm, hát bóng đã hơn 70 năm, bà là cây đại thụ của làng hát bóng của TX. Thuận An nói riêng, tỉnh Bình Dương nói chung. Tuổi đã cao, không thể tự mình đi xa được nên ngay từ tối ngày 13 bà đã kêu con cháu trong nhà chở Bà cùng mâm vàng, mâm bạc, trầu cau (những lễ vật dâng Bà trong chặp hát/múa bóng) ra miếu. Bà sẽ ngủ lại ở miếu để sớm hôm sau hát/múa rỗi để dâng Bà. Hát bóng rỗi ở miếu Bình Nhâm gồm các xấp: Rỗi vào đám (do bà Ba Đón đảm nhiệm); rỗi mời Bà (3 xấp), rỗi mời Ông (Quan Thánh Đế Quân cùng hai người con của mình là Châu Xương và Quan Bình); rỗi mời Cô; rỗi mời Cậu; rỗi mời Tiên ở bàn Tổ (Bát Tiên – những nhân vật trong Đạo Giáo Trung Hoa); rỗi mời Chiến sĩ, rỗi An vị. Hát rỗi là hát nghi lễ, bà bóng thay mặt nhân dân bá tánh trong vùng mời Bà về chứng lễ và dâng lời cầu mưa thuận gió hòa, dân khang vật thịnh… lên Bà. Tuy là nghi lễ nhưng lại được thể hiện bằng điệu hát khi thì thánh thót, vút cao, lúc lại nỉ non, ai oán tạo nên nhiều cung bậc cảm xúc trong lòng người nghe.

Đi đôi với “hát rỗi” là “múa bóng” gồm các tiết mục: múa dâng chén bông, múa dâng lộc, múa dâng bông huệ, múa trống chầu đẹp mắt, vừa đủ tính trang trọng của một nghi lễ, vừa gần gũi với đời sống thường ngày, thỏa mãn nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của nhân dân.

Năm nay (2011), một người trong xã đã “cúng” một chặp Địa Nàng để “làm vui cho Bà”. Là một chặp bóng – tuồng hài hước, hoạt cảnh mà hai nhân vật Địa, Nàng cùng ứng tác: Địa đòi ăn, Địa đau đẻ, Địa chấm chè tạo nên tiếng cười sảng khoái cho người xem.

Trong suốt thời gian diễn ra lễ cúng, ngôi miếu thường ngày tĩnh lặng, nay tấp nập người ra vào. Người đi xe, người đi bộ và ai cũng xách một xách trái cây, một bó hoa hay một mâm xôi, đặt lên trang, thắp hương, miệng lầm rầm khấn vái, khi về chỉ lấy lại một ít trái cây, một bông hoa hay xắt một vắt xôi để lấy lộc. Trong tâm thức của người dân chúng ta, tính Mẹ luôn đồng nhất với sự thiêng liêng, sự chở che, bảo bọc. Có lẽ vì vậy mà người ta tìm tới miếu Bà để giãi bày nỗi niềm, để tìm sự an ủi, yên bình, để cầu xin những điều mà vì những giới hạn của bản thân trong cuộc sống con người không thể vượt qua được. Năm tháng qua đi và miếu Bà Bình Nhâm đã và đang chứng kiến, tích trữ, lưu giữ những giá trị lịch sử, văn hóa, tâm linh cho những thế hệ mai sau.

Hạ Trúc

Em Hãy Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử: “Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam”

Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam tọa lạc nơi chân núi Sam, trước thuộc xã Vĩnh Tế, nay thuộc phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang, Việt Nam. Đây là một di tích (lịch sử, kiến trúc và tâm linh) quan trọng của tỉnh và của khu vực.Nguồn gốcCách đây khoảng 200 năm, tượng Bà (sau được gọi tôn là Bà Chúa Xứ) được dân địa phương phát hiện và khiêng xuống từ đỉnh núi Sam bằng 9 (có nguồn nói 12 hoặc hơn nữa) cô gái đồng trinh, theo như lời dạy của Bà qua miệng “cô đồng”, nên người dân đã lập miếu để tôn thờ .Có ý kiến cho rằng Thoại Ngọc Hầu hoặc vợ là bà Châu Thị Tế là người đã ban lệnh và hỗ trợ việc xây dựng miếu. Tuy khó xác minh, nhưng biết chắc là miếu ra đời sau khi vị quan này về đây trấn nhậm và kênh Vĩnh Tế đã hoàn tất (1824) mang lại lợi ích rõ rệt cho lưu dân và dân bản địaKiến trúcBan đầu miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam được cất đơn sơ bằng tre lá, nằm trên vùng đất trũng phía tây bắc núi Sam, lưng quay về vách núi, chính điện nhìn ra con đường và cánh đồng làng.Năm 1870, ngôi miếu được xây dựng lại bằng gạch hồ ô dước. Năm 1962, ngôi miếu được tu sửa khang trang bằng đá miểng và lợp ngói âm dương. Năm 1965, Hội quý tế cho xây nới rộng nhà khách và làm hàng rào nhà chính điện của ngôi miếu. Năm 1972, ngôi miếu được tái thiết lớn và hoàn thành vào năm 1976, tạo nên dáng vẻ như hiện nay, và người thiết kế là hai kiến trúc sư Huỳnh Kim Mãng và Nguyễn Bá Lăng.Đến khi ấy, kiến trúc miếu có dạng chữ “quốc”, hình khối tháp dạng hoa sen nở, mái tam cấp ba tầng lầu, lợp ngói đại ống màu xanh, góc mái vút cao như mũi thuyền đang lướt sóng. Bên trong miếu có võ ca, chánh điện, phòng khách, phòng của Ban quý tế…Các hoa văn ở cổ lầu chính điện, thể hiện đậm nét nghệ thuật Ấn Độ. Phía trên cao, các tượng thần khỏe mạnh, đẹp đẽ giăng tay đỡ những đầu kèo. Các khung bao, cánh cửa đều được chạm trổ, khắc, lộng tinh xảo và nhiều liễn đối, hoành phi ở nơi đây cũng rực rỡ vàng son. Đặc biệt, bức tường phía sau tượng Bà, bốn cây cột cổ lầu trước chính điện gần như được giữ nguyên như cũ.Ở thời điểm năm 2009, thì miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam là “ngôi miếu lớn nhất Việt Nam”Tượng Bà Chúa Xứ Núi SamKhi xưa, tượng Bà ngự trên đỉnh núi Sam, gần Pháo Đài. Chứng minh cho điều này là bệ đá Bà ngồi vẫn còn tồn tại (ảnh). Bệ đá có chiều ngang 1,60m; dài 0,3m, chính giữa có lỗ vuông cạnh 0,34m, loại trầm tích thạch màu xanh đen, hạt nhuyễn, không có ở địa phương.Theo nhà khảo cổ học người Pháp là Malleret đến nghiên cứu vào năm 1941, thì tượng Bà Chúa Xứ Núi Sam thuộc loại tượng thần Vishnu (nam thần), tạc dáng người nghĩ ngợi, quý phái, chất lượng bằng đá son, có giá trị nghệ thuật cao, được tạc vào cuối thế kỷ 6, và rất có thể đây một trong số hiện vật cổ của nền văn hóa Óc Eo [4].Sau này, nhà văn Sơn Nam cũng đã chép rằng: Tượng của Bà là pho tượng Phật đàn ông của người Khmer, bị bỏ quên lâu đời trên đỉnh núi Sam. Người Việt đưa tượng vào miễu, điểm tô lại với nước sơn, trở thành đàn bà mặc áo lụa, đeo dây chuyền. Và từ đó “Bà Chúa Xứ” là vị thần có quyền thế lớn ở khu vực ấy, xứ ấy…Cũng theo lời truyền miệng dân gian, thì khi xưa có một nhóm người đến quấy nhiễu nơi đây. Gặp tượng Bà, họ muốn lấy đi nhưng xê dịch không được nên tức giận đập gãy cánh tay trái của pho tượngChung quanh tượng Bà (đặt ở giữa chính điện), còn có bàn thờ Hội Đồng (phía trước), Tiền hiền và Hậu hiền (hai bên), bàn thờ Cô (bên phải, có thờ một tượng nữ thần nhỏ bằng gỗ), bàn thờ Cậu (bên trái, có thờ một Linga bằng đá rất to, cao khoảng 1,2m)…Theo sách Kỷ lục An Giang, 2009, thì tượng Bà là “pho tượng bằng đá sa thạch xưa nhất Việt Nam”, và “có áo phụng cúng nhiều nhất”Việc thờ cúngLễ Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam được tổ chức trang trọng từ ngày 23 đến 27 tháng 4 âm lịch hàng năm, trong đó ngày vía chính là ngày 25. Các lễ chính gồm:

Lễ “tắm Bà” được cử hành vào lúc 0 giờ đêm 23 rạng 24 tháng 4 âm lịch.

Lễ “thỉnh sắc” tức rước sắc và bài vị Thoại Ngọc Hầu cùng hai phu nhân từ Sơn lăng về miếu bà, được cử hành lúc 15 giờ chiều ngày 24.

Lễ túc yết và Lễ xây chầu: Lễ “túc yết” là lễ dâng lễ vật (lễ vật chính là con heo trắng) và tiến hành nghi thức cúng Bà, lúc 0 giờ khuya đêm 25 rạng 26. Ngay sau đó, là “Lễ xây chầu” mở đầu cho việc hát bộ (còn gọi là hát bội hay hát tuồng).

Lễ chánh tế được cử hành vào 4 giờ sáng ngày 27.

Lễ hồi sắc được cử hành lúc 16 giờ chiều cùng ngày, ngay sau khi Lễ chánh tế kết thúc. Đây là lễ đem sắc và bài vị Thoại Ngọc Hầu cùng hai phu nhân về lại Sơn lăng.

Theo tín ngưỡng của người dân, nơi đây vẫn còn có những tục như xin xăm Bà, vay tiền Bà, thỉnh bùa Bà… Ý nghĩa việc thờ cúngNhà văn Sơn Nam viết:Bà Chúa Xứ, dạng đạo Lão dân gian, thu hút bá tánh nhiều nhất Nam Bộ. Cất bên chùa Tây An nhưng trong “Đại Nam nhất thống chí” không ghi tên, phải chăng đời Tự Đức và khi Pháp đến hồi cuối thế kỷ 19, miễu hãy còn khiêm tốn, khách hành hương chỉ là người phụ cận mà thôi. Miễu phát triển về sau, qua thời kháng Pháp rồi chống Mỹ…… Lăng Thoại Ngọc Hầu được trùng tu, rồi lập miếu thờ trang nghiêm như đình làng, nhưng vẫn không đáp ứng được yêu cầu của con người khi quá đau khổ, bế tắc. Miễu bà Chúa Xứ được nâng cấp, thay cho miễu sơ sài…Đây là dạng tu tiên, một dạng như: Tây Vương Mẫu, Cửu Thiên Huyền Nữ, hoặc Liễu Hạnh công chúa…nên việc thờ phượng, cúng vái để “tự nhiên”, khách có thể ăn mặc lòe loẹt, trai gái đùa giỡn, cúng rượu thịt… Vị trí miễu Bà bên núi Sam hội đủ: Sông rộng, đồi núi trập trùng, vùng biên giới…Người hành hương cảm thấy được thỏa mãn về tâm thần, hòa mình vào”sơn hà xã tắc”, “khí thiêng sông núi”…Theo Nguyễn Đức Toàn, thì:Theo bước đường Nam tiến của dân tộc Việt, chúa Liễu đã từ Phủ Giầy (Nam Định), Đền Sòng (Thanh Hóa) đi về phương Nam, tạm dừng ở điện Hòn Chén (Huế) và gặp bà Pô Nưgar tại Nha Trang, gặp bà Đen (Linh Sơn Thánh Mẫu) ở Tây Ninh và bà Chúa Xứ ở núi Sam, Châu Đốc…Tất cả các bà đều là mộtMẹ duy nhất trong tâm thức của tín ngưỡng và tập tục thờ mẫu của người Việt…Sách Kiến thức phục vụ thuyết minh du lịch giải thích thêm:Do ảnh hưởng Phật giáo, Lão giáo cùng với các tín ngưỡng đồng bóng của dân gian mà các vị thần được thờ chủ yếu là nữ, như: Thánh mẫu Liễu Hạnh, Thượng Ngàn, Bà Chúa Tiên, Bà Chúa Ngọc, Bà Chúa Động, Bà Cố Hỷ, Bà Thủy, Bà Hỏa…Và Bà Chúa Xứ trở thành một dạng như “Phật Bà Quan Âm” (đối với người Việt), “Bà Mã Hậu” hay “Thiên Hậu Nương Nương” (đối với người Hoa). Bà được tin tưởng đến độ có rất nhiều huyền thoại về “quyền lực linh thiêng” của Bà trong việc “ban phúc, giáng họa” cho con người. Như hai câu liễn đối treo ở miếu Bà như sau:Cầu tất ứng, thí tất linh, mộng trung chỉ thiXiêm khả kính, Thanh khả mộ, ý ngoại nan lường.Tạm dịch:Xin thì được, ban thì linh, báo trong giấc mông(Người) Xiêm sợ hãi, (Người) Hoa kính mộ, ý tứ khôn lường.Từ năm 2001, lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam được Bộ Văn hóa Thông tin và Tổng cục Du lịch Việt Nam công nhận là Lễ hội cấp Quốc gia. Ngoài phần Lễ được tổ chức trang trọng theo lối cổ truyền, phần Hội cũng được tổ chức trọng thể hàng năm.

Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông Di Tích Lịch Sử Cách Mạng Cấp Quốc Gia Tỉnh Sóc Trăng

Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông hay còn được gọi là Miếu Bà Mỹ Đông, toạ lạc tại ấp Mỹ Đông 1, xã Mỹ Qưới, huyện Ngã Năm, là một trong tám di tích cấp quốc gia của tỉnh, cách thành Phố Sóc Trăng 60 km về hướng Đông – Bắc, cách thị trấn Phú Lộc, huyện Thạnh Trị khoảng 20km.

Cổng chính vào Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông

     Ngôi miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông là nơi lưu dấu sự ra đời Chi bộ Đảng Cộng Sản Việt Nam đầu tiên tỉnh Sóc Trăng – Chi bộ Mỹ Quới vào tháng 6/1930. Nơi đây được chọn làm điểm để chi bộ sinh hoạt, do có địa thế cách trở, đảm bảo được bí mật. Từ ngày thành lập chi bộ, đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, Chi bộ Đảng của Mỹ Qưới luôn đi đầu trong phong trào cách mạng.

     Khi đất nước hòa bình, bà con ở đây đã cùng nhau dựng lại ngôi miếu bằng tre gỗ và lợp lá để thờ cúng. Sau đó, tỉnh được Trung ương đầu tư kinh phí khôi phục lại ngôi miếu và xây thêm một số hạng mục khác. Hiện nay, nhà trưng bày hiện vật, cổng chính, hàng rào đã xây dựng hoàn thiện, đưa vào phục vụ tốt nhu cầu sinh hoạt tâm linh tín ngưỡng của người dân, cũng như tìm về với lịch sử của tỉnh Sóc Trăng của du khách gần xa. Cách ngôi miếu khoảng 200m về hướng Bắc là khu mộ của đồng chí Trần Văn Bảy-người đảng viên kiên cường, cũng là người lãnh đạo của Chi bộ Mỹ Quới (di hài được cải táng từ Côn Đảo về năm 1998) và song thân của Ông.

Khuôn viên Miếu Bà Chúa Xứ

     Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông mang ý nghĩa lịch sử cách mạng vô cùng to lớn. Những Đảng viên của chi bộ hoạt động nơi đây đã góp phần đưa ánh sáng cách mạng và đường lối chính sách của Đảng đến với mọi tầng lớp nhân dân trong tỉnh. Lãnh đạo tỉnh thường xuyên chọn nơi đây làm địa điểm tổ chức kỷ niệm ngày thành lập Đảng hàng năm, nhằm ôn lại truyền thống cách mạng và động viên giáo dục tinh thần cách mạng cho thế hệ hôm nay và mai sau. Lễ vía Bà được tổ chức long trọng hằng năm vào ngày 16/2âl, thu hút đông đảo người dân địa phương và du khách các nơi về tham dự. Năm 2003, Bộ Văn hoá Thông tin, nay là Bộ VHTTDL ban hành Quyết định 62 công nhận Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông là di tích lịch sử cấp quốc gia ./.                                                     

KP

Khu Di Tích Gò Tháp – Di Tích Quốc Gia Đặc Biệt Ở Đồng Tháp

Khu di tích Gò Tháp – Di tích quốc gia đặc biệt ở Đồng Tháp

Khu di tích Gò Tháp là khu di tích cấp quốc gia đã được công nhận từ năm 1998, chứa đựng nhiều giá trị văn hóa-lịch sử của dân tộc và nhân loại. Nơi đây hiện còn quần thể di tích của Vương quốc Phù Nam cách đây hơn 1.500 năm; có di tích 2 thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cùng nhiều tầng văn hóa dân gian. Du lịch Đồng Tháp, đến đây tìm về nguồn cội, du khách sẽ có những trải nghiệm lý thú, từ đó thêm trân trọng những đóng góp của các bậc tiền nhân đi mở cõi.

Gò Tháp gồm nhiều gò nhỏ, thấp nằm trên một vùng đất pha cát, ở trung tâm khu vực Đồng Tháp Mười, có hệ thống kênh rạch chằng chịt, hệ sinh thái rừng tràm phát triển mạnh. Đặc biệt Gò Tháp là một trong 34 “di tích quốc gia đặc biệt” của Việt Nam, là 1 trong 2 di tích lịch sử và khảo cổ quan trọng trong cả nước (Khu trung tâm Hoàng Thành Thăng Long và di tích Gò Tháp – tại huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp).

Từ những năm cuối thế kỷ XIX và vào những thập kỷ đầu thế kỷ XX, một số nhà nghiên cứu người Pháp đã đến đây khảo sát và công bố những phát hiện quan trọng về một số dấu tích kiến trúc cổ, tượng thờ, bia đá và văn tự cổ… Từ sau khi đất nước hòa bình và thống nhất vào năm 1975, các nhà khảo cổ học Việt Nam cũng đặc biệt quan tâm đến khu di tích Gò Tháp.

Nhiều nhà khảo cổ học phát hiện nhiều dấu tích, di vật, hiện vật cổ thuộc nền văn minh Óc Eo. Đồng thời tìm ra được 3 loại hình di tích quan trọng là di tích cư trú với các di vật như: bếp lửa, những mảnh nồi, thanh củi cháy dở, cọc nhà sàn,…; di tích mộ táng được phát hiện ở các gò cát, qua nhiều đợt khai quật đã phát hiện 13 mộ táng, thu được trên 1.000 hiện vật, tùy táng chôn theo như: mảnh vàng có chạm khắc hoa văn, đá quí, đầu tượng, đồ gốm, nhẫn vàng…và di tích kiến trúc được phát hiện ở các gò cao như: Gò Minh Sư, Gò Tháp Mười, Miếu bà Chúa Xứ, Chùa Tháp Linh…Hầu hết di tích kiến trúc tìm thấy nằm sâu trong lòng đất, được xây dựng công phu có tường thành bao bọc xung quanh để chống sự xâm thực của gió và nước, kiến trúc xây dựng ở trình độ cao. Di vật, hiện vật tìm thấy ở đây chủ yếu là các tượng thần Visnu, Siva bằng đá sa thạch, cột đá có chốt, các phiến đá có chạm khắc hoa văn và minh văn.

Cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, một bộ phận cư dân người Việt từ đàng ngoài đã vào đây khai hoang lập nghiệp, mở mang bờ cõi trên vùng đất còn hoang hóa với nhiều rừng rậm, sình lầy, muỗi bầy, thú dữ.

Chính vì thế, Gò Tháp không chỉ nổi tiếng về khai hoang, lập ấp mà còn nổi tiếng với địa hình hiểm trở, nơi hội tụ của bao anh hùng hào kiệt chống ngọai xâm giữ nước thời kỳ đầu chống Pháp khi Đảng ta chưa ra đời. Nơi đây là đại bản doanh của nghĩa quân Thiên hộ Võ Duy Dương, Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều thời kỳ đầu chống Pháp (1864 – 1886). Từ năm 1946 – 1948, Gò Tháp là căn cứ địa của Xứ ủy Nam bộ, Ủy ban Hành chính kháng chiến Nam bộ, Khu ủy khu 8. Nơi đây từng in dấu chân hoạt động cách mạng của nhiều cán bộ cao cấp của Đảng như các đồng chí: Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Trần Văn Trà, Nguyễn Bình, Nguyễn Thị Thập… Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Tiểu đoàn 502 anh hùng đã đánh sập Viễn vọng đài cao 42m do chế độ Ngô Đình Diệm xây dựng để quan sát, khống chế các hoạt động của quân giải phóng vào tháng 12/1959.

Cách Gò Tháp Mười 100 m về phía Bắc là tháp Cổ Tự, tương truyền rằng đã có từ đời Thiệu Trị (1841-1847), trước đó là ngôi tháp thờ Chân Lạp. Trải qua nhiều thế kỉ thăng trầm, ngôi chùa giờ đây đượm màu hoang phế, những dấu vết chiến tranh cỏn in đậm trên vách tường và các bức tượng thờ thần, Phật v.v.

Du lịch Đồng Tháp, đến Gò Tháp bạn sẽ bất ngờ bởi đây không chỉ là khu di tích mà còn có cảnh quan thiên nhiên hoang sơ với những thảm thực vật phong phú đặt trưng của vùng đất ngập nước.

Bạn đang xem bài viết Miếu Bà Bình Nhâm, Một Di Tích Nhiều Giá Trị trên website Iseeacademy.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!