Cập nhật thông tin chi tiết về Phong Tục Ma Chay Của Người Huế mới nhất trên website Iseeacademy.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Bài viết của Trần Như Lãm
“Sinh hữu hạn tử vô kỳ”. Có sanh ắt có tử. Sinh, lão, bệnh, tử là quy luật của tạo hóa. Phong tục ma chay của nhiều địa phương trên địa bàn Thừa Thiên Huế tuy có nhiều nét khác nhau nhưng vẫn giống nhau ở những điểm cơ bản.
Khi có người qua đời, nếu chết ở đường xa, quan tài không đem vào nhà, mà làm tang ở ngã ba đường cái. Nếu qua đời trong sự bình thường, quan tài thường được quàng ở nhà lớn. Tùy theo địa vị trong gia đình quàng ở căn giữa, căn trên hay căn dưới. Người ta truyền miệng cho nhau trong làng cùng biết. “Nhất cận thân, nhì cận lân”, bà con lối xóm tập trung đông đúc, người làm rạp, người trang hoàng, người tẩm liệm. Công việc rộn rịp trong ngày đầu. Từ chết không ai được dùng đến, mà gọi là mất. Người vừa mất được đặt trên cái giường quay đầu ra ngoài sân. Cơm gối đầu: Liền sau khi mất, người nhà đơm một chén cơm đầy vung, chén cơm để một cái trứng vịt đã lột vỏ và cấm vào chén cơm đôi đũa tre, trên đầu đũa có vót cho tre quấn lại thành cái bông, rồi để chén cơm ấy phía trên đầu người chết.
Quan tài (hòm) được trét đất sét phía trong, đất nhào thật nhuyễn với nước cơm (hồ) trát đầy phía trong, ở các góc và các kẽ hở. Dùng lá chuối xanh dán vào lớp đất, lót ở trong đáy hòm nhiều mạc cưa, mun (tro bếp) phòng hờ nhiều năm sau, có thể cải táng mà nhận dạng.
Khi làm lễ hạ thổ thi thể đàn ông đưa lên đưa xuống đất 7 lần (7 vía), đàn bà 9 lần (9 vía). Nói như vậy nhưng mục đích là để khí dương trong thân thể người chết thoát hết vào đất. Sau khi đặt thi thể người chết vào quan tài, phủ đất kín mít. Đậy nắp quan tài cũng phải coi giờ tốt. Dùng dây mây hoặc tre dài làm dây néo ở hai đầu quan tài thật chắc (hơi trong quan tài mạnh có thể làm bật nắp quan tài). Quan tài đặt trên hai ghế ngắn. Chân ghế có cột vải tẩm dầu hỏa để phòng ngừa kiến leo lên. Dưới quan tài đặt một dĩa đèn dầu phụng thắp sáng ngày đêm, mục địch hơi dầu phụng thơm, xông lên đánh tan mùi tử khí. Vì vậy, lúc bốc mộ dùng dầu phụng bôi vào mũi tay chân tránh được mùi xú uế, mùi tử khí. Các thứ dầu Nhị thiên đường, dầu thêm đến mức nào cũng không ngăn được loại mùi chết đó!…Ngoài hòm trang trí các hoa văn, cánh sen hoặc sơn phết cho đẹp, còn phủ lên trên hòm vải trắng có “đăng ten”, bấy giờ hòm gọi là linh cữu. Trước linh cữu có bàn soạn thiết trí linh vị có ảnh, chúng ta thường gọi là linh sàn. Trước linh sàn, đôi khi có nhà đặt bàn Phật, có nhà lập bàn Phật xây qua hướng khác.
Chùa có sắn cây triện, lên đó mượn, rồi viết lên một miếng vải hoặc giấy ghi tên tuổi làng xã… người mất. Chữ viết trên triện phải theo quy luật:
Người chết là nam, tổng số chữ viết trên triện chia cho 4, còn lẽ ba (quỹ, khóc, linh). Người chết là nữ, chữ trên triện chia cho 4 là chẵn (quỹ, khóc, linh, thính). Viết xong treo trước quan tài. Không có lá triện là “ma chết không triện” nên phải có.
Đám ma ở làng, nhà giàu thường mời thầy chùa, thầy pháp, nếu không, nhờ khuông hội Phật giáo làng cúng kiến tụng kinh. Chương trình tang lễ được đặt ra tùy theo xem được ngày giờ chôn cất. Nếu không coi ngày giờ, nội trong ba ngày là phải chôn cất: “Tam nhật nội chi nội bất khán lịch nhật”. Người chết gặp lúc cận Tết phải chôn cất vào ngày 30 tháng Chạp, không được để sang năm mới.
Sau khi lập liệm xong, trang hoàng nhà cửa tươm tất rồi làm lễ thành thục. Lễ thành thục là lễ chịu tang, con cháu nội ngoại, dâu, rễ, chắt chiu họp lại bịt khăn tang. Ai cũng dùng sắc phục màu trắng; riêng chắt nội mặc áo và bịt khăn màu đỏ, chắc ngoại mặc áo và bịt khăn màu vàng.
Lễ thành phục xong, con trai, cháu nội đích tôn đội mũ rơm, chống gậy tre (nếu ông nội hoặc cha mất), gậy vông (nếu bà nội hoặc mẹ mất). Phụ nữ là con, vợ, dâu trùm vải lên đẩu gọi là mũ mấn. Quanh quẩn bên quan tài không được lớn tiếng và ngồi ăn uống với khách đến viếng thăm, chỉ được phép đứng. Trước lúc làm lễ thành phục phải có cau trầu rượu thưa chuyện và mời một vị làm chấp lệnh nội (thường là các vị trưởng Họ, Phái; nếu gia đình neo đơn phải mượn người lớn tuổi quen biết). Ông chấp lệnh là người điều hành tang lễ trong suốt thời gian tang chế. Mọi người trong hàng tang chủ phải tuyệt đối chấp hành, trình bày với “quan” chấp lệnh vì “tang gia bối rối” nên không sáng suốt để điều hành công việc. Tập quán làng hễ có người qua đời, việc đầu tiên là đến thăm hỏi, sau đó ngày khác phúng điếu. Lễ vật cúng điếu là hương (nhang) và tiền (không nhiều). Đây là nghĩa vụ của người dân hương thôn gọi là “thù tạc vãng lai” (có qua có lại). Nếu là sui gia, Họ, Phái, tổ chức tập thể phải có thêm mâm cau trầu rượu. Lệnh kiểng để làm lễ có phân loại: -Ba hồi lệnh và ba đùi (tiếng) dành cho các đơn vị lớn hơn như Làng, Họ, Phái, Xóm -Một hồi lệnh và ba đùi (tiếng) dành cho thông gia hoặc ai có mâm cau trầu rượu -Ba đùi (tiếng) là tình làng nghĩa xóm. Nghe tiếng lệnh là phân biệt được ai đang phúng điếu.
Trước ngày đưa đám có lễ cúng như: yết cáo từ đường (trình với tổ tiên ngày mai đến ở chỗ mới), triêu điện (lễ buổi sáng), tịch điện (lễ buổi tối). Đêm trước ngày mai đưa linh cữu về nơi an nghỉ cuối cùng có lễ nhiễu quan. Lễ nhiễu quan là lễ đi quanh hòm, để tỏ sự luyến tiếc lần cuối đối với người chết.
Lễ cáo đạo lộ là lễ trình xin đường với thần giữ đường ngày mai đưa đám, đặt bàn có hương hoa và cáo ở đường lộ gần nhà (lễ này cáo ban đêm, chủ lễ là người không bịt khăn tang). Sáng ngày di quan có lễ khiển điện và lễ triệt linh sàng.
Âm công: Trước vài ngày, tang quyến lên danh sách mời một số trợ tang để đưa linh cữu ra đồng (nghĩa trang). Bộ phận trợ tang này gồm rất nhiều người: 1 “quan” Chấp lệnh ngoại 1 “quan” Quản áp (cai giang) 1 ông giàn đồ thứ (người phân công việc) 4 vị đầu roi 50 âm công
Nếu có nhiều trướng liễn, lẵng hoa, vòng hoa…phúng điếu, số người tăng lên, tổng cộng gần cả trăm người. Những vị này có thể nhờ những người trong Họ, Phái và bà con xóm giềng. Lệ làng không nhận thù lao. Thông thường tang quyến dù giàu hay nghèo đều có tổ chức ăn uống. Có thể dùng bữa trước khi di quan hoặc sau khi chôn cất xong. Sau khi chôn cất xong, về nhà làm lễ “phản khóc” (hết khóc) là công việc đã xong, có thể ăn uống giải lao.
Giàn đám Trước một ngày đưa đám, mọi người tập trung làm mọi công việc. Cánh đàn ông đi khuân vác giàn đám về kết. Giàn đám làm bằng gỗ tốt, có hai đòn bông to dài, đà chịu lực, nhiều xà bang và một khung gỗ hình chữ nhật, trang hoàng lộng lẫy để che quan tài. Quan tài được đặt bàn chính giữa bàn đám, chung quanh gồm 8 hoặc 10 bụp (chỗ âm công gánh). Người trước cách người sau nửa bước chân, nên khi gánh đám không thể đi nhanh vì sợ vấp chân người trước. Vì vậy phải đi chậm rãi “như đưa đám mệ”. Nhìn từ xa như con rết khổng lồ chuyển động.
Di quan: Ban âm công gồm: 1 Cai giang thắt lưng màu đỏ, cầm hai cây đèn sáp lớn và một cặp sanh (trắc) 4 ông Đầu roi thắt lưng màu trắng, cầm một cây đèn sáp nhỏ và một cây cờ nheo (cờ ba cạnh) 16 âm công hoặc nhiều hơn cầm mỗi người một cây đèn sáp nhỏ, áo dài đen quần dài trắng
Sau khi nghe gióng lệnh kiểng của ông chấp lệnh, ông Cai Giang đánh ba hồi trắc và ba tiếng báo hiệu giờ di quan bắt đầu. Ban âm công sắp một hàng dài trước sân theo thứ tự như trên, đi vào nhà, vòng quanh quan tài một vòng (theo chiều kim đồng hồ) rồi ra sân, mục đích quan sát trước chỗ đặt quan tài để khi di quan khỏi bỡ ngỡ. Lúc này gia chủ để một mâm cau trầu và tiền bạc trên chiếc bàn đặt trước linh cữu gọi là lễ bái quan. Sau khi bái quan, âm công nhận lễ vật này.
Ra đến sân, âm công thắp tất cả đèn sáp (vẫn giữ một hàng dọc và thứ tự như trước). Từ đó, Cai Giang cất cặp sanh, im lặng ra lệnh bằng đèn sáp, không ra lệnh bằng tiếng. Cai Giang dẫn đầu đoàn âm công đi năm bảy vòng (theo chiều kim đồng hồ) trong sân như rắn bò (liên xà). Sau cùng, một vòng lớn rồi tiến thẳng vào nhà đến trước quan tài. Cai Giang dừng lại trước quan tài. Đoàn âm công tiếp tục rẽ phải, rẽ trái chia làm hai hàng đi ra; dẫn đầu mỗi hàng là một ông Đầu roi.
Cai Giang bấy giờ đứng trước mặt bốn hàng âm công. Đứng đầu mỗi hàng là một ông Đầu roi, đồng làm lễ bái quan một lạy. Tang chủ đứng hai bên linh cữu lạy ra một lạy (lạy trả). Bái quan xong, hai hàng âm công ở giữa quay đằng sau mà bước tới (đi ra) để chắp vào đuôi của hai hàng ở hai bên, làm thành hai hàng dài, đầu đầu và đầu đuôi của một hàng có một ông đầu roi. Cai Giang bấy giơ giơ cao đèn sáp ra lệnh hàng bên phải, hàng bên trái vào đứng hai bên quan tài để di quan.
Quan tài vừa ra khỏi nhà, một người ở trong nhà dùng tấm ngói hoặc om đất, dĩa đất ném mạnh xuống đất tạo ra tiếng động lớn “choảng” sau đó rút một tấm tồn trên mái nhà hoặc rạp, mục đích để hồn ma đi ra không vương vấn lại nhà. Quan tài ra đến sân, tất cả đoàn âm công đều tắt đèn. Cai Giang dùng trắc và tiếng hô để ra lệnh âm công đưa quan tài vào bàn địa dư (bàn để linh cữu). Bốn góc quan tài có bốn ông Đầu roi giúp Cai Giang ra lệnh nâng góc quan tài lên hay hạ xuống hoặc chuyển lệnh của Cai Giang đến âm công.
Trước khi khởi hành, Cai Giang thường báo cho âm công biết lộ trình đến huyệt mả xa gần, dễ đi hay trắc trở khó khăn, khuyên cố gắng bình tĩnh. Lệnh ra dõng dạc và nghiêm, thường dùng các từ sau đây: “Tiền hậu bơi hai đốc (âm công dạ…)”. Dãy trong cho chí dãy ngoài, tất cả nghe cho rõ, nghe cho lọt trắc. Gõ nhịp dắp hai tiếng trắc là đi. Gõ một tiếng là đứng lại. Bốn góc có bốn ông Đầu roi trợ giúp. Cho một lớp eo mà eo giả, eo thật. Không xách, không nhún, khom lưng, chống đầu gối, tay bóp nài. Cho một lớp vai. Đi chậm chậm, rà chân. Cai Giang tùy ý điều khiển, sắp xếp hiệu lệnh. Nghề này không có sách vở dạy, miễn sao âm công gánh cho đầm, hạ huyệt cho êm là nhiệm vụ chính của Cai Giang. Đưa đám ra đồng đi xa hay gần đều phải gánh bộ. Đoàn người tiễn đưa rất đông. Nếu đường xa phải thay đổi lớp âm công dự bị gánh. Linh cữu ngang qua các nhà thờ lớn, đình chùa, miếu, Cai Giang cho dừng lại, ra lệnh ra vai xuống eo để tỏ sự tôn kính. Qua khỏi, mới lên vai đi tiếp. Người trợ tang dùng lọng che phần cổng của am miếu cho đến khi linh cữu qua hết mới cất đi. Việc di quan từ trong nhà ra xe là quan trọng, nhộn nhịp, người nào cũng khẩn trương. Người đi xem nô nức như xem hội múa hoa đăng.
Tế đạo trung: Đi được nửa đường làm lễ tế đạo trung, cũng là dịp để âm công nghỉ ngơi. Thân bằng quyến thuộc ai chưa đi điếu được, đây cũng là dịp để phúng điếu vì sau khi chôn cất xong không được đi điếu nữa.
Hạ khoáng – hạ huyệt Huyệt đào chôn phải thâm thổ 3 tấc đất, nghĩa là đến lớp đất nguyên sơ (mặt đất cũ) phải đào sâu thêm ba tấc nữa (30cm). Vì chôn trên cao, xương bị khô; chôn quá sâu, xương bị mục. Chôn sâu ba tấc đất là đủ khí âm dương, là tốt. Trước khi hạ huyệt, có lễ trị huyệt để đuổi tà ma ẩn núp trong huyệt.
Lễ tạ thổ thần ở nghĩa địa: Chôn xong, làm lễ tạ thổ thần tại mả gồm bông hoa, bộ áo thổ thần. Chủ lễ là người không bịt khăn tang.
Mở cửa mả: Ba ngày sau, tính từ ngày đưa linh cữu ra đồng, làm lễ mở cửa mả để linh hồn người chết về với gia đình nhờ rải giấy vàng trên mỗi đoạn đường từ nhà đến huyệt mả trong ngày đưa linh cữu ra nghĩa trang nên linh hồn người chết biết được đường về nhà khi mở cửa mả. Làm lễ mở cửa mả là thầy cúng dùng con dao vạch lên phía chân nấm mả ba đường dọc và đọc thần chú (mỗi lần vạch dao là đọc một câu thần chú). -Nhất trung, khai môn mộ, hung thần tốc xuất; -Nhị tả, khai môn mộ, vong giả an cư; -Tam hữu, khai môn mộ, gia phước an khang. Dịch nghĩa: -Một vạch ở giữa, mở cửa mả thần hung dữ phải ra mau. -Vạch thứ hai phía trái, mở cửa mả, người mất ở yên ổn. – Vạch thứ hai phía phải, mở cửa mả, gia đình được phước yên lành.
.
(Nguồn: khamphahue.com)
.
.
Phong Tục Đám Cưới Của Người Huế
Phong tục đám cưới của người Huế cũng khá giống như phong tục cưới của người miền Trung. Đám cưới người Huế diễn ra đơn giản và tiết kiệm, không quá phô trương.
Phong tục đám cưới của người Huế cũng có đủ các bước thủ tục như các địa phương khác, từ lễ chạm ngõ, lễ hỏi cho đến tân hôn, vu quy … Nhìn tổng thể, các đám cưới ở Huế thường diễn ra một cách tiết kiệm và đơn giản. Đám cưới người Huế Không quá phô trương, những trong mỗi chi tiết của buổi lễ lại khá cầu kỳ. Với người Huế, họ quan niệm rằng “Trọng lễ nghi, khinh tài vật”. Nghĩa là coi trọng các phong tục lễ nghi, không coi trọng lễ vật, tiền tài.
Lễ chạm ngõ trong đám cưới của người Huế
Lễ chạm ngõ hay lễ dạm ngõ của người Huế được tổ chức rất giản đơn. Bên nhà trai chọn ngày sang thăm bên nhà gái để biết nhà cửa, thường không có nghi thức đặc biệt gì trong lễ này. Trong lúc gặp mặt, hai nhà sẽ cho biết ngày tháng năm sinh của người con trai và con gái để từ đó tìm ra ngày lành, tháng tốt để cưới.
Sau khi có được ngày tháng năm sinh, nhà trai sẽ tìm thầy tướng số để xem ngày lành. Người Huế rất coi trọng ngày cưới, có khi họ còn lên chùa hỏi ý kiến của những vị cao tăng đắc đạo để tìm ra ngày cưới tốt cho con cháu của mình.
Sau khi chọn được ngày giờ, hai bên thông gia sẽ thông báo cho nhau bằng một cuộc thăm hỏi đơn giản. Việc này cũng đôi khi do đôi bạn trẻ thực hiện, nhưng phải là hai nhà có thân tình từ trước.
Lễ hỏi của người Huế
Lễ hỏi còn gọi là lễ đính hôn được người Huế tổ chức trước đám cưới một thời gian. Người Huế chỉ xem lễ hỏi là buổi gặp mặt giữa hai gia đình và họ hàng thân thích để giới thiệu đôi bạn trẻ, không tổ chức rầm rộ.
Ngoài trầu cau, chú rể cũng cần phải chuẩn bị một chiếc nhẫn để đeo cho cô dâu trong lễ hỏi, chiếc nhẫn này gọi là nhẫn đính hôn. Đám cưới của người Huế không có tục thách cưới, lễ vật trong đám cưới tối thiểu chỉ gồm có mâm trầu cau, rượu trà, nến tơ hồng, bánh phu thê. Nếu nhà trai có khả năng tài chính tốt thì có thể có thêm các mâm bánh kem, báo dẻo … tuy nhiên sẽ không có mâm heo quay như phong tục cưới của những địa phương khác.
Hồi xưa, sau khi tổ chức lễ hỏi, theo phong tục của người Huế, người con trai phải đến nhà của người con gái để làm rể một thời gian. Thời gian làm rể có thể kéo dài từ 2 đến 3 năm thì nhà gái mới đồng ý gã con gái cho. Trong thời gian làm rễ, người con trai phải phụ giúp nhà gái làm ruộng, cày cuốc, …
Các nghi thức trong phong tục cưới của người Huế
Đám cưới người Huế có các lễ: xin giờ, nghinh hôn, bái tơ hồng, lễ rước dâu diễn ra ở nhà gái và lễ đón dâu. Đám cưới ở Huế luôn có phù dâu, phù rể và hai đứa trẻ rước đèn đi trước. Hai đứa trẻ thường là 1 trai 1 gái, tuổi tương đương nhau, tay cầm lồng đèn hay cầm hoa.
Lễ cúng tơ hồng trong đám cưới của người Huế
Lễ cúng tơ hồng thường được tổ chức ở nhà gái. Bàn thờ Tơ Hồng có thể lập ở trong nhà hay ngay giữa sân. Trên bàn thờ Tơ Hồng có lư hương, đèn, nến, trái cây, xôi gà, rượu và cơi trầu. Cô dâu chú rể đứng hàng ngang trên chiếu trải trước hương án để lạy 4 lạy, vái 3 vái, rồi quỳ nghe người đại diện đọc văn tế Tơ Hồng. Khi người đọc xong văn tế, chú rể và cô dâu lại lễ tạ Nguyệt Lão rồi cùng uống chung một ly rượu và ăn một miếng trầu đã có sẵn trên bàn thờ Tơ Hồng. Uống chung ly rượu này có nghĩa là hai người sẽ là một và sống tới khi đầu bạc răng long.
Lễ tơ hồng và lễ gia tiên của người Huế đều được thực hiện trong ngày cử hành lễ cưới.
Lễ rước dâu trong đám cưới của người Huế
Sau khi hoàn tất lễ tơ hồng và lễ gia tiên bên nhà gái xong, sẽ làm lễ rước cô dâu về nhà chồng. Cô dâu về nhà chồng phải đúng giờ, gọi là giờ nhập trạch hay còn gọi là giờ tốt. Có về đúng giờ thì chuyện làm dâu sẽ thuận lợi và tốt đẹp. Nếu rước dâu để trễ mất giờ tốt sẽ sinh ra những chuyện không hay sau khi cưới.
làm lễ gia tiên tại nhà trai. Lễ gia tiên tại nhà trai mang ý nghĩa là bên nhà trai giới thiệu đến tổ tiên của mình người con dâu là thành viên mới trong gia đình.
Trong đêm tân hôn, đôi bạn trẻ phải làm lễ giao bôi, hợp cẩn. Người Huế có tập tục để trong phòng hoa chúc một khay lễ với 12 miếng trầu, đĩa muối, gừng và rượu giao bôi. Đôi bạn trẻ phải nhai hết 12 miếng trầu ấy, tượng trưng cho 12 tháng hòa hợp trong một năm. 12 năm hòa hợp tuần hoàn trong một giáp âm lịch. Việc ăn muối, ăn gừng mang màu sắc dân gian, biểu tượng nghĩa tình nồng thắm. Còn rượu giao bôi thì theo đúng với lễ giáo phong kiến của phương Đông.
hành xử. Không hề có chuyện ồn ào thái quá trong các lễ và tiệc cưới, Trao đổi ngôn từ giữa hai bên thông gia và giữa bà con thân thích đều rất thận trọng. Việc thưa gửi, trình bày của chủ hôn, bố mẹ hai bên đều rất khuôn sáo và không bỏ sót ai.
Trang phục cưới trong của người Huế
Áo dài truyền thống được xem là trang phục cưới chủ yếu của người Huế. Chiếc áo dài được xem là được xuất thân từ mảnh đất kinh thành Huế trước khi trở thành chiếc quốc phục của Việt Nam. Vì thế, trong đám cưới của người Huế, họ đều rất ưa chuộng chọn trang phục áo dài trong lễ cưới. Những bộ váy Soiree, váy cưới kiểu Tây, váy cưới hiện đại cũng được các cô dâu người Huế mặc khi thực hiện những Album ảnh cưới. Những kiểu váy này giúp họ có những tấm ảnh cưới đầy phong cách và hiện đại hơn so với việc chỉ mặc những bộ áo dài và chụp tại những cố đô cổ kính.
kế lại những bộ cổ phục của triều Nguyễn và mặc nó trong lễ cưới của mình.
Cô dâu sẽ chọn áo Nhật Bình. Áo Nhật Bình là trang phục ngày thường của Hoàng Thái Hậu, Hoàng Hậu và Hoàng Quý Phi trong triều đình Huế thời phong kiến. Tùy theo phẩm cấp màu áo Nhật Bình có màu sắc và hoa văn khác biệt.
Áo Nhật Bình cho cô dâu và áo Tấc dành cho chú rể được xem là trang phục cưới cổ truyền độc đáo của thời phong kiến triều đình nhà Nguyễn tại kinh thành Huế. Các bạn trẻ người Huế chọn trang phục này trong ngày cưới vừa thể hiện sự mới lạ vừa hướng đến cội nguộn của các vua chúa thời xưa của vùng đất mình sinh sống
Nếu thấy bài viết hay , chia sẻ ngay với bạn bè
Tumblr
Đi Đám Ma Lạy Mấy Lạy Là Đúng Phong Tục Của Người Việt Nam.
08/11/2020 – 12:17 AM
Admin
1406 Lượt xem
MỘT VÀI HIỂU LẦM KHI VIẾNG ĐÁM TANG
Trước khi đi vào tìm hiểu về vấn đề “Đi đám ma lạy mấy lạy là đúng chuẩn?” thì mọi người sẽ phải nắm bắt được một vài hiểu lầm mà không ít bạn vẫn đang mắc phải. Đó chính là sự khác biệt giữa “vái” và “lạy”, tuy rất đơn giản nhưng chưa chắc ai cũng phân biệt được 2 hành động này. Lời giải thích chi tiết sẽ như sau:
Vái
Là một hành động thể hiện sự tôn trọng trước người đã khuất ngồi trên bàn thờ. Tuy nhiên, chỉ thể hiện ở một mức độ vừa phải. Luôn phải thực hiện ở tư thế đứng, quỳ. Hai tay chắp lại, để cao hơn trán một tí sau đó hạ tay xuống ngang bằng ngực, đầu hơi cúi xuống tỏ lòng thành kính và rồi lập lại. Tốc độ thực hiện diễn ra khá nhanh.
Lạy (trong đám tang)
Cũng là một hành động thể hiện sự tôn trọng với người đã khuất tuy nhiên lại thể hiện ở một mức độ cao và trang nghiêm hơn “vái” rất nhiều. Có thể diễn ra ở tư thế đứng hoặc quỳ, khi quỳ sẽ càng thể hiện sự tôn kính hơn.
Hai tay cũng chấp lại và đặt cao hơn trán, giữa lòng bàn tay thường kẹp vài nén nhang, còn đầu thì cúi xuống thành kính. Tay từ trên cao hạ thấp xuống tới bụng, mình cũng phải nghiêng theo, thậm chí sát đất. Như thế là hoàn thành 1 lần lạy, chỉ cần lặp lại theo quy trình.
Lạy (không có nén nhang kẹp trong lòng bàn tay)
Trong trường hợp mọi người lạy nhưng không có nhang thì cũng thực hiện như trên. Tuy nhiên, khi cúi mình thì phải sát đất, hai bài bàn đặt hai bên, lật ngửa lên trên để thể hiện lòng tôn kính.
Ý nghĩa của từ vái và lạy của người Việt
ĐI ĐÁM MA NÊN LẠY MẤY LẠY?
Sau khi đã nắm rõ được khái niệm về hành động “vái” và “lạy” thì mọi người sẽ cần biết khi đi tang lễ nên thực hiện bao nhiêu cái lạy là đủ. Theo phong tục của người Việt Nam sẽ được chia ra làm 4 kiểu lạy: Lạy 2 cái, 3 cái và 4 cái. Mỗi loại sẽ mang một ý nghĩa riêng như sau:
Lạy 2 cái: được thực hiện để tỏ lòng thành kính với người người đã khuất/người sống.
Lạy 3 cái: được sử dụng cho việc cúng bái các đức Phật.
Lạy 4 cái: được dùng để thể hiện sự tôn kính chư vị thần linh như thần Tài, Thổ Địa,…
Đi đám ma lạy mấy lạy là đúng?
Ngoài ra, trong trường hợp mọi người đi thăm viếng người đã mất sau khi được an táng rồi thì phải lạy 4 cái và vái 3 cái.
CÁCH LẠY ( KHÔNG KẸP NHANG TRONG LÒNG TAY ) TRONG ĐÁM TANG NGƯỜI VIỆT
Có lẽ người Việt Nam chúng ta thuộc vào top những đất nước, dân tộc có phong tục, tập quán đặc biệt, phong phú nhất. Khi đi lạy đám ma cũng được chia thành 2 kiểu lạy cho đàn ông và cả đàn bà. Nếu chưa biết thì chi tiết sẽ như bên dưới.
Cách lạy của đàn ông
Đàn ông khi lạy (không dùng nhang) thì phải luôn ở tư thế đúng trang nghiệp, hai tay đặt trước ngực. Sau đó tay đưa cao lên cao hơn trán, từ từ nghiêng mình, đầu cúi lạy, chuyển sang tư thế quỳ và cúi đầu xuống gần sát đất. Khi đó, hai bàn tay phải mở ra và đặt cả 2 lên đầu gối bên trái. Cuối cùng từ từ co người lên rồi đứng dậy. Nhớ phải thực hiện cách khá chậm rãi, từ tốn để tỏ lòng kính trọng tuyệt đối.
Cách lạy khi đi đám tang
Cách lạy của phụ nữ
Người phụ nữ phải ngồi thật khép nét, che đi những khuyết điểm phàm tục, gây mất sự trang nghiêm trong lúc lạy người đã khuất. Hai chân phải vắt chéo, chân trái bên trên, trên phải dưới đất, đặt 2 chân chéo sang bên trái. Lòng bàn chân bên phải ngửa lên. Hai tay cũng chấp cao hơn đầu một tí, nghiêng mình cúi lạy gần sát đất thì 2 lòng bàn tay mở ra, đặt lên đầu. Lúc này hãy giữ nguyên trong vòng 1, 2 giây rồi lặp lại. Cuối cùng là đứng dậy và lui về sau.
Vậy đó chính là lời giải đáp cho câu hỏi “Đi đám ma lạy mấy lạy cho đúng chuẩn người Việt Nam?”. Hy vọng rằng phần nội dung bên trên đã cung cấp cho các bạn thật nhiều kiến thức về đời sống, văn hoá của dân tộc ta. Hãy cố gắng học hỏi để vận dụng và truyền lại cho con cháu sau này. Cảm ơn tất cả quý đọc giả vì đã tham khảo bài viết này.
Phong Tục Cưới Hỏi Của Người Việt Nam
Trình tự phong tục cưới hỏi của người Việt Nam
Chuẩn bị sính lễ ăn hỏi
Theo phong tục cưới hỏi của người Việt Nam, trước khi nhà trai sang nhà gái để xin dâu, trưởng họ bên nhà trai sẽ đứng ra kiểm tra lại sính lễ – mâm quả rước dâu, sau đó đích thân đậy nắp lại và phủ vải đỏ lên, tượng trưng cho sự may mắn.
Kế đó, mẹ chú rể sẽ trao tay mâm quả, sính lễ cho các chàng trai trong đội bưng quả để mang đến nhà gái.
Trao sính lễ, mâm quả
Ở nhà gái, trưởng họ nhà trai đi đầu đoàn sẽ xin phép được làm nghi lễ rước dâu, nếu được nhà gái đồng ý thì đoàn nhà trai sẽ xếp hàng bưng mâm quả, sính lễ từ cổng nhà gái để vào làm thủ tục.
nhà trai tiến vào, các cô gái bê tráp của nhà gái cũng xếp hàng, cùng song hành thành 2 hàng và trao nhau những mâm sính lễ phủ vải đỏ. Lưu ý đội hình bê tráp nên là những nam thanh nữ tú còn độc thân. Một số gia đình còn có phù rể, là người đi đầu đoàn bê quả, mang khay rượu và nữ trang đi vào.
Mang mâm quả lên bàn thờ gia tiên
Sau khi đội bưng quả trao nhau, những khay sính lễ sẽ được đặt ở bàn thờ gia tiên họ nhà gái. Thường khay trầu cau được đặt ở chính giữa, vị trí trang trọng nhất.
Theo phong tục cưới hỏi của người Việt Nam, mtộ mâm quả cưới thường khoảng 4-6 mâm, hoặc 6-8 mâm vì số lượng mâm quả không quá quan trọng, nhưng bên trong nên đầy đủ các lễ vật như:
Trầu cau
Mâm trái cây
Bánh phu thê
Trà rượu
Xôi gấc, xôi gà
Tiền, vàng,…
Trình sính lễ
trong lễ rước dâu là chủ hôn họ nhà trai xin phép mở nắp tráp, giới thiệu danh sách lễ vật với quan viên hai họ.
Ra mắt cô dâu
Sau khi sính lễ đầy đủ, bố hoặc mẹ cô dâu dắt con gái từ khuê phòng ra chào, ra mắt hai họ và chuẩn bị làm lễ.
Thắp hương gia tiên
Tiếp theo trong trình tự phong tục cưới hỏi người Việt Nam, sau khi cô dâu ra mắt quan viên hai họ, chủ hôn của họ nhà gái cùng thắp hương để cô dâu, chú rể làm lễ gia tiên. Việc này thường do người đàn ông có uy tín, tiếng nói trong họ nhà cô dâu thực hiện (bố, bác cả, trưởng họ cô dâu).
Một số nơi còn có tục đốt nến (đèn long phụng), đèn này thường do họ nhà trai mang đến để làm lễ. Sau khi chủ hôn thắp hương xong thì cô dâu chú rể làm lễ khấn bái gia tiên.
đặc trưng của đám người người Việt, thể hiện lòng hiếu lễ, biết ơn của con cháu đến tổ tiên, cội nguồn.
Trao nhẫn cưới
Bố mẹ sẽ lần lượt trao tín vật cho cô dâu, chú rể trước quan viên hai họ, như của hồi môn chúc phúc cho đôi tân lang tân nương. Kế tiếp, những người thân trong gia đình cô dâu cũng thay nhau gửi quà mừng đến đôi trẻ trong ngày vui.
Mời rượu, trầu cau
Một phong tục cưới hỏi người Việt Nam quan trọng nữa là cô dâu chú rể làm lễ mời rượu, mời trầu cau. Thường người rót rượu sẽ là chàng phù rể, còn cô dâu chú rể cùng nhau xé cau, xếp trầu và mời rượu. Đôi tân lang tân nương sẽ mời rượu hai chủ hộn trước rồi đến bố mẹ hai bên, cùng các cụ, ông, bà của hai họ.
Lại quả (Trả lễ)
Sau khi nhận sính lễ, nhà gái sẽ trả lại mâm quả cho nhà trai, khoảng 1/2 số sính lễ. Trường hợp quả đậy bằng nắp thì lật người nắp lên, che bằng khăn thì lật một nửa khăn lên.
Tiệc nhà gái
Tiệc ở nhà gái thông thường được tổ chức ngắn gọn, tối giản với trà, bánh để tiết kiệm thời gian sao cho cô dâu, chú rể về nhà trai làm lễ đúng giờ lành. Có một tập tục nhỏ trong lễ rước dâu là lì xì lấy may cho đội bưng quả.
Rước cô dâu về dinh
Đây là giờ phút các chàng rể mong chờ nhất trong lễ rước dâu. Sau khi hoàn tất các thủ tục ở nhà gái thì mẹ chồng sẽ là người dắt con dâu ra xe hoa, đi cùng là chú rể và phù rể, phù dâu.
Đoàn rước dâu cũng có nhiều người bên họ nhà gái, thường là họ hàng thân thiết, bạn bè cô dâu, thường theo quy luật đi lẻ về chẵn.
Về nhà trai
Sau khi đoàn rước dâu về đến nhà trai, làm lễ ra mắt ở bàn thờ gia tiên nhà trai, nhận quà mừng của người thân, họ hàng bên nhà trai. Kế đến, mẹ chồng ra dắt cô dâu vào phòng tân hôn, làm thủ tục trải giường.
Theo phong tục cưới hỏi người Việt Nam, giường cưới cho đôi tân lang, tân nương thường là giường mới toanh, chưa ai nằm lên, thường do mẹ chồng trải, hoặc những bạn trẻ họ hàng, bạn bè thân trải để lấy hên, ý nghĩa sau này sinh con có nếp có tẻ.
Chuẩn bị những gì cho ngày lễ cưới?
Lập ngân sách
Đây là bước đầu tiên cho việc chuẩn bị một đám cưới. Kế hoạch rõ ràng, cụ thể là điều nên làm, sau đây gợi ý một số vấn đề khi chuẩn bị ngày cưới:
Tổ chức đám cưới ở đâu?
Dự kiến bao nhiêu khách mời?
Làm thiệp mời cưới
Trang phục ngày cưới là gì?
Mâm cỗ đám cưới gồm những gì?
Tự trang trí đám cưới hay thuê dịch vụ trang trí đám cưới?
Thuê dịch vụ trang điểm cho cô dâu và hai họ
Thuê xe đưa rước dâu hay mượn xe của người quen
Cuối cùng, hãy xác định ngân sách cần phải có cho kế hoạch cưới, bao gồm ngân sách cố định và ngân sách dự phòng (chi phí phát sinh).
Chọn ngày cưới
Trong phong tục cưới hỏi của người Việt Nam, chuyện lựa chọn ngày làm đám cưới rất quan trọng và được bố mẹ của hai bên gia đình quyết định. Chính vì thế, các cặp đôi nên hỏi ý kiến bố mẹ sớm để chuẩn bị cho lễ cưới được chu toàn.
Bên cạnh đó, hai bạn cũng nên chủ động chọn ngày làm tiệc cưới sao cho phù hợp với thời gian biểu của cả hai, đồng thời cũng tính đến cả thời gian rảnh rỗi của phần lớn khách mời (ở thành phố thường là thứ 7, chủ nhật).
Việc chọn ngày cưới sớm sẽ giúp các bạn biết được thời gian chuẩn bị cho đám cưới còn bao lâu để có kế hoạch triển khai các công việc cần làm một cách tốt nhất và kịp thời nhất.
Khám sức khỏe
Sai lầm của nhiều cặp đôi là thường bỏ qua bước khám sức khỏe trước hôn nhân vì chủ quan và tin tưởng vào người bạn đời của mình.
Tuy nhiên, khám sức khỏe trước hôn nhân lại là việc rất quan trọng và hết sức cần thiết, tránh những vấn đề phát sinh về sức khỏe sinh sản hay việc mắc các bệnh truyền nhiễm, nhằm lưu giữ gia đình hạnh phúc.
Chính vì thế, dù bận rộn đến đâu, các cặp đôi vẫn nên chọn ngày để đi khám sức khỏe cùng nhau trước cưới bao gồm sức khỏe tổng quan và cả sức khỏe sinh sản.
Chọn trang phục
Câu hỏi mà rất nhiều cặp đôi thường băn khoăn là nên may hay đặt dịch vụ thuê áo cưới. Điều này tùy thuộc vào thời gian chuẩn bị đám cưới và ngân sách cưới, cũng như sở thích của hai bạn.
Bạn có thể lựa chọn trang phục áo dài truyền thống theo phong tục cưới hỏi người Việt Nam hoặc chọn đầm Soiree theo phong cách châu Âu
Chụp ảnh cưới
Tính xong phần trang phục đám cưới, hai bạn cần nghĩ ngay đến công đoạn chụp ảnh cưới, bao gồm: Quyết định nên thuê studio hay tự chụp? Lựa chọn các địa điểm chụp ảnh cưới? Xác định phần ngân sách dành cho chi phí chụp ảnh cưới?…
Chọn nhẫn cưới
Nhẫn cưới sẽ gắn bó với bạn suốt chặng đường hôn nhân, vì vậy chuẩn bị chu đáo để mua nhẫn là việc làm quan trọng, không thể bỏ qua.
Cô dâu chú rể nên dành thời gian 2 – 3 tháng trước ngày cưới để bắt đầu đi chọn nhẫn. Bởi không phải đôi uyên ương nào cũng chọn được kiểu dáng nhẫn yêu thích ngay từ lần thử đầu tiên mà có thể phải đặt làm theo số đo riêng.
Mỗi mẫu nhẫn đặt làm riêng có thể mất cả tháng, nên việc mua sớm sẽ giúp bạn không bị thúc ép vì ngày cưới đang tới gần.
Lập danh sách khách mời
Làm thiệp cưới
Thiệp cưới là một vật phẩm thông báo buổi lễ của bạn đến với những người thân và bạn bè xung quanh. Ngoài ra, thiệp cưới còn mang đến nhiều ý nghĩa tuyệt vời và là minh chứng trọng đại trong ngày cưới của bạn. Khi người thân, bạn bè nhận được thiệp cưới chắc hẳn mọi người cũng sẽ vui mừng và chúc mừng cho hạnh phúc của bạn.
Đặt tiệc cưới
Lên kế hoạch trăng mật
Nếu như đám cưới là giây phút trọng đại trong cuộc đời mỗi người để tuyên bố với tất cả thế giới rằng hai bạn đã thực sự là của nhau thì tuần trăng mật lại là cột mốc đánh dấu những tháng ngày đầu tiên trong đời sống vợ chồng. Nhiều người quan niệm, tuần trăng mật ngọt ngào, mặn nồng sẽ đưa đến một đời sống vợ chồng hạnh phúc, viên mãn.
Bạn đang xem bài viết Phong Tục Ma Chay Của Người Huế trên website Iseeacademy.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!