Xem Nhiều 6/2023 #️ Thánh Lễ Giỗ 3 Năm Của Đức Cố Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Hòa # Top 14 Trend | Iseeacademy.com

Xem Nhiều 6/2023 # Thánh Lễ Giỗ 3 Năm Của Đức Cố Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Hòa # Top 14 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Thánh Lễ Giỗ 3 Năm Của Đức Cố Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Hòa mới nhất trên website Iseeacademy.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

THÁNH LỄ GIỖ 3 NĂM CỦA ĐỨC CỐ GIÁM MỤC PHAOLÔ NGUYỄN VĂN HÒA 

 

Chiều thứ sáu, ngày 14/02/2010, tại nhà thờ Chánh Tòa Nha Trang, Đức Cha Giuse Võ Đức Minh Giám mục Giáo phận Nha Trang  đã chủ sự thánh lễ giỗ 3 năm của Đức cố Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Hoà.

XEM HÌNH ẢNH

Cùng đồng tế có Đức cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản Giám mục Giáo phận Buôn Mê Thuột, Cha Quản xứ Giáo xứ chánh toà Quy Nhơn, Đức Ông Tổng đại diện Giuse Lê Văn Sỹ Quản xứ Giáo xứ chánh toà Nha Trang và quý linh mục đoàn của  giáo phận. Tham dự thánh lễ có quý tu sĩ nam nữ, chủng sinh,  và anh chị em giáo dân các giáo xứ  trong Hạt Nha Trang.

Thánh lễ được mở đầu với bài hát “Trăm triệu lời ca” của Cố Đức cha Phaolô do ca đoàn thực hiện. Sau đó  Đức Cha Giuse nói: Chúng ta hiện diện chiều hôm nay nơi nhà thờ Chánh toà thật là đặc biệt để cầu nguyện cho Đức cố Giám mục Phaolô nhân 3 năm  Ngài rời xa chúng ta về với Chúa, Ngài là người cha kính yêu của giáo phận chúng ta .

Trong bài chia sẻ lời Chúa, Đức Cha Giuse nhắc đến những giây phút cuối cùng của Đức cố Giám mục Phaolô tại Toà giám mục Nha Trang trong an bình, trong thanh thản và trong hạnh phúc Ngài nhắm mắt từ biệt chúng ta. Ngài ra đi trong ân sủng của Chúa, trong tâm tình hiếu thảo của những người con, Ngài về với Chúa. Và cũng chính trong bài phúc âm hôm nay lời Chúa nói về hạt lúa mì rơi xuống đất mục nát và mất đi để trổ sinh bông hạt. Đó chính là hình ảnh của Chúa Giêsu, hình ảnh của các người tông đồ môn đệ của Chúa. Sau đó Đức cha nhắc nhớ đến những kỷ niệm của Đức cha với Đức cố Giám mục Phaolô lúc còn trẻ (1963) cũng như những giây phút quý hiếm bên nhau. Với khẩu hiệu “Trong tinh thần và chân lý” Ngài luôn luôn nói tiếng “ Xin Vâng”, Ngài sống như thân phận của hạt lúa mì mục nát đi để sinh hoa kết trái. Với 34 năm làm Giám mục chánh toà của Giáo phận Ngài đã âm thầm hy sinh và cống hiến nhiều cho giáo phận về nhiều mặt …Ngài là vị mục tử mẫu mực của một nhân cách trọn vẹn cần vươn tới. Hôm nay chúng ta quy tụ nơi đây để  dâng hy lễ tạ ơn, tưởng niệm và cầu nguyện cho Ngài. 

Đức Cố Giám mục Phaolô đã ra đi thật xa, nhưng vẫn đang rất gần gũi với chúng ta, vẫn còn đó nụ cười đầm ấm ngày nào trong cả một thời thử thách và khó khăn của chúng ta.

Cuối thánh lễ, Đức Cha Giuse cùng đoàn đồng tế  tiến ra hang đá Đức Mẹ nơi phần mộ Cố Đức Cha Phaolô đã an nghỉ để cùng đọc kinh thắp nén hương tưởng nhớ Ngài.

XEM VIDEO và BÀI GIẢNG

 

THÁNH LỄ GIỖ 3 NĂM KÍNH NHỚ ĐỨC CHA CỐ PHAOLÔ NGUYỄN VĂN HÒA

TẠI NHÀ THỜ CHÁNH TÒA NHA TRANG

Vào 5 giờ chiều ngày 14/02/2020 tại Nhà thờ Chánh Tòa Giáo phận Nha Trang

, Đức cha Giuse Võ Đức Minh, Giám mục giáo phận Nha Trang, đã long trọng cử hành Thánh lễ giỗ 3 năm kính nhớ Đức cha cố Phaolô Nguyễn Văn Hòa – Giám mục Giáo phận Nha Trang (1975-2009). Thánh lễ đồng tế có 40 linh mục trong giáo phận, đặc biệt có hiện diện của Đức cha Vincent Nguyễn Văn Bản – Giám mục Giáo phận Ban Mê Thuột (nơi Đức cha Phaolô làm Giám quản Tông tòa từ năm 2006 đến năm 2009), cha Giuse Lê Kim Ánh (Cha quản xứ Chính Tòa Qui Nhơn), với sự tham dự sốt sắng của nhiều tu sĩ nam nữ giáo phận Nha Trang và Ban Mê Thuột, các chủng sinh và giáo dân từ các giáo xứ trong thành phố Nha Trang.

Trong bài giảng lễ, Đức cha Giuse, với tình yêu thương và trân trọng, đã gợi nhắc lại những kỷ niệm của mình với Đức cha Phaolô như lần gặp đầu tiên vào năm 1963 khi chú chủng sinh Giuse Minh gặp cha Phaolô trong dịp ngài được bổ nhiệm về làm cha phó Giáo xứ Chính Tòa Đà Lạt. Qua dòng thời gian, theo thánh ý Chúa, cha Giuse Võ Đức Minh được tấn phong làm Giám mục phó Giáo phận Nha Trang (2005), được sống và làm việc với Đức cha Phaolô. Và những giây phút cuối cùng, Đức cha Giuse đã cùng với một số anh em linh mục, nữ tu và chủng sinh đã hiện diện bên cạnh Đức cha Phaolô để cùng dâng lên Chúa những lời kinh, ý nguyện cầu cho Đức cha Phaolô vào tối 14/02/2017 tại Toà Giám mục Nha Trang.

Đức cha Phaolô là một đại ân nhân của Giáo phận Nha Trang. Ngài là người đã xây dựng Đại Chủng viện Sao Biển Nha Trang để đào tạo các ứng sinh linh mục cho ba Giáo phận: Nha Trang, Qui Nhơn và Ban Mê Thuột, đã mở khóa thần học liên tu sĩ nhằm thăng tiến đời sống của các nữ tu, và các khóa huấn luyện cho hội đồng giáo xứ, ca trưởng, giáo lý viên trong giáo phận.

Sau khi ban phép lành cuối lễ, Đức cha Giuse và đoàn đồng tế cũng như mọi thành phần dân Chúa đã tiến đến mộ phần của Đức cha Phaolô tại hang đá Đức Mẹ Lộ Đức trong khuôn viên sân nhà thờ để cùng nhau dâng lên Chúa những lời cầu nguyện xin Chúa thương đón nhận Đức cha Phaolô – người cha của Giáo phận về hưởng tôn nhan Chúa nơi thiên đàng.

Lúc 5g sáng ngày 14/02, gia đình Đại Chủng viện

(ĐCV) Sao Biển, nơi Đức cha cố Phaolô Nguyễn Văn Hòa đã sống thời gian hưu dưỡng gần 3 năm (2010-2013), cũng  đã dâng thánh lễ giỗ cầu nguyện cho Đức cha Phaolô. Thánh lễ do cha Giám đốc Gioan Baotixita Ngô Đình Tiến chủ tế, với sự đồng tế của quý cha trong Ban giám đốc và quý cha giáo, cùng sự hiện diện của gần 270 chủng sinh, các nữ tu dòng Khiết Tâm Đức Mẹ Nha Trang phục vụ tại ĐCVvà một vài giáo dân.

Quả thật, Đức cha Phaolô như hạt lúa mì được Thiên Chúa gieo vào mảnh đất Giáo phận Nha Trang. Ngài đã hy sinh mục nát, đã thối đi để sinh nhiều bông hạt là sự phát triển của Giáo phận và của Đại Chủng viện Sao Biển ngày nay, giúp giáo phận ngày càng lớn mạnh và đầy sức sống.

Nguyện xin Chúa là Cha yêu thương đón nhận Đức cha Phaolô vào thiên quốc.

 

ĐCV Sao Biển

 

Thánh Lễ Giỗ 1 Năm Ông Cố Giuse Phan Văn Hòa

Vào lúc 10h00 sáng thứ bảy, ngày 11.03.2017 tại Giáo xứ Mỹ Hòa, TGP. Sài Gòn. Thánh lễ giỗ kỉ niệm 1 năm ngày ông cố Giuse Phan Văn Hòa (Thân phụ của cha Giuse Phan Trọng Quang, MF) qua đời. Đức cha Giuse Nguyễn Tấn Tước – Giám mục Giáo phận Phú Cường chủ tế thánh lễ cùng đồng tế với ngài có cha Tổng đại diện Gp. Phú Cường Simon Nguyễn Văn Thu, quý cha Hạt trưởng, quý cha Bề trên, cha Giám tỉnh, quý cha Dòng Thừa Sai Đức Tin và quý cha trong và ngoài TGP. Sài Gòn. Hiện diện trong thánh lễ có quý tu sĩ nam nữ các hội dòng, quý ân nhân và thân bằng quyến thuộc của cha Giuse Phan Trọng Quang, MF.

Trước khi vào thánh lễ, cha Piô Ngô Phục chánh xứ Mỹ Hòa ngỏ lời chào mừng Đức cha Giuse, cha Tổng Đại diện, quý cha Bề trên, quý cha, quý tu sĩ và quý khách đến dâng thánh lễ cầu nguyện cho ông cố Giuse nhân lễ giỗ 1 năm. Cha xứ cũng kính chúc Đức cha và cộng đoàn một mùa chay tràn đầy ơn thánh Chúa.

Mở đầu thánh lễ, Đức cha Giuse nói lên tâm tình của ngày lễ giỗ qua sự hiện diện rất đông các thành phần dân Chúa trong nhà thờ hôm nay. Sự hiện diện của cộng đoàn nơi đây là để tưởng nhớ đến ông cố Giuse, để cùng cầu nguyện cho ông cố và cầu nguyện cho nhau trong hành trình hướng về Nước Trời vĩnh cửu.

Giảng trong thánh lễ, Đức cha Giuse diễn tả về những khát vọng của con người hướng đến Thiên Chúa qua hành trình sống đức tin của người Kitô hữu. Sống trong tình thương của Chúa đó là niềm hy vọng lớn nhất của chúng ta và cũng là khát vọng của chính Chúa Giêsu. Đức cha cũng gợi lên sự khát vọng đó trong các bài đọc sách thánh hôm nay, qua Tin mừng mà lời nguyện của Chúa Giêsu: ” Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành” (Ga 17,24). Khát vọng của Chúa Giêsu là mong muốn chúng ta được sống, được cứu độ và được ở bên Chúa Cha. Bày tỏ ý định khát vọng quang lâm là qui tụ mọi dân nước trên núi thánh để được hưởng hạnh phúc với Chúa. Mọi tín hữu đều là con cái Thiên Chúa và đã được trao ban cho Chúa Giêsu, đó cũng là niềm khát vọng của Chúa Giêsu. Tình thương mà Chúa ban ân sủng cho chúng ta là được sum họp để gắn kết với nhau. Hôm nay, cộng đoàn chúng ta qui tụ nhau nơi đây, để dâng thánh lễ cầu nguyện cho ông cố Giuse được hưởng nhan thánh Chúa, và cùng nhau nhắc nhớ mọi người trong niềm cậy tin vào lòng thương xót Chúa và Chúa sẽ lắng nghe lời cầu nguyện của chúng ta.

Sau phần hiệp lễ, cha Giuse Phan Trọng Quang, MF có đôi lời bày tỏ tâm tình cảm ơn Đức cha Giuse, quý cha, quý tu sĩ nam nữ, quý ân nhân và thân bằng quyến thuộc đã đến nhà thờ Mỹ Hòa, dâng thánh lễ giỗ 1 năm cho ông cố Giuse. Trong niềm nhớ thương ông cố, gia đình luôn được sự quan tâm, yêu thương của quý Đức cha, quý cha, quý tu sĩ và những người thân quen của gia đình ông cố. Một năm qua, cha Giuse và gia đình cũng cảm nhận được sự mất mát về sự ra đi của ông cố nhưng qua sự động viên, khích lệ của cộng đoàn trong thánh lễ như là bước hành trang kế tiếp cho gia đình sống theo gương ông cố là luôn sống tương quan, hiền hòa, khiêm cung trong cuộc sống hằng ngày.

Ban Truyền Thông

Một số hình ảnh trong thánh lễ

Mùng 3 Tháng 3 Ngày Giỗ Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh

Mộ phần Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh tại thôn Vân Cát huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định.

Từ trung tâm Hà Nội, du khách lái xe hướng qua ra đường CT 01/ CT Pháp Vân – Cầu Giẽ. Đến đoạn giao giữa CT Hà Nội – Ninh Bình và CT Pháp Vân – Cầu Giẽ, lái xe qua vòng xuyến sang QL 21B vào Đại lộ Thiên Trường. Tại vòng xuyến Big C Nam Định, dẽ phải vào QL10/QL38B qua cầu Lộc An tới Đại Lộ Lê Đức Thọ qua cầu Nam Định dẽ phải vào ĐT490/ ĐT 490C, dẽ trái vào ĐT487 đến ngã rẽ phải thứ 5 dẽ vào và đi thẳng đến ngã dẽ thứ 4 bên trái dẽ vào đi thẳng theo đường làng Phú Hào là tới đền Phủ Giày.

Đền Phủ Giày thờ ai?

Đền là một quần thể gồm nhiều ngôi đền nhỏ ghép lại. Đặc biệt phải nói đến kiến trúc quan trọng nhất là đền thờ bà chúa Liễu Hạnh (phủ chính), ngay sát chợ Viềng. Các kiến trúc còn lại là Tiên Hương, Vân Các, Công Đồng từ, đền thờ Lý Nam Đế, chùa Linh Sơn, lăng bà chúa Liễu Hạnh. Phủ Tiên Hương được coi là đền chính của Mẫu Liễu Hạnh và thờ bên chồng của Mẫu, còn phủ Vân Cát và Phủ Tổ là nơi thờ Mẫu và bên ngoại (bên bố mẹ đẻ) của Mẫu.

Lịch sử đền Phủ Giày

Đền Phủ Dầy có truyền thuyết kể lại rằng xưa kia vì nhớ thương chồng con trước khi về trời mà bà chúa Liễu Hạnh đã để lại chiếc giày ở trần gian. Cũng có truyền thuyết kể lại rằng vua đi qua vùng này và nghỉ đêm ở quán hàng của bà chúa Liễu Hạnh, sau đó được tặng một đôi giầy nên đã lập nơi thờ tự và gọi đó là Phủ Dầy. Khi gọi Phủ Dầy còn vì chính nơi này có món bánh dày – giò nổi tiếng, lại có người cho rằng: Kẻ Dày xuất phát từ nơi có gò đất nổi lên hình bánh dầy trước cửa phủ.

Phủ Dầy bắt nguồn từ tên một làng cổ là “Kẻ giầy”. Theo “Sự tích công chúa Liễu Hạnh” của Trọng Nội, Xuất bản năm 1959 thì: đời Vua Anh Tông (1557) làng kẻ Giầy đổi thành xã An Thái gồm: Vân Cát, Vân Cầu, Vân La (Vân Đình) và Vân Miếu. Đến đời Gia Long, Vân Cát chia thành 2 xã là Vân Cát và Kim Thái. Sang đời Tự đức (1860) xã An Thái đổi thành 2 thôn Vân Cát và Tiên Hương xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, Tỉnh Nam định.

Vân Cát là nơi sinh ra, Tiên Hương là quê chồng và là nơi chôn cất Mẫu Liễu Hạnh khi Bà qua đời sau lần giáng trần thứ nhất. Phủ Dầy chính là “cái nôi” sinh ra Thánh Mẫu Liễu Hạnh và là tên gọi chung cho một quần thể các di tích của tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở huyện Vụ Bản Nam định. Tên di tích được gọi theo địa danh ở địa phương.

Kiến trúc đền Phủ Giày

Đền Phủ Giày gồm 3 quần thể chính:

Phủ Tiên Hương thuộc thôn Tiên Hương, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, Nam Định; nằm cạnh đường giao thông liên xã. Đây là phủ chính trong quần thể di tích Phủ Dầy. Phủ được xây dựng từ thời Lê – Cảnh Trị (1663 – 1671), trải qua bao thăng trầm lịch sử, phủ vẫn giữ được nét cổ kính thời xưa.

Năm 1996 Phủ Tiên Hương đã được sửa chữa lớn để thờ phụ thân của Mẫu Liễu Hạnh và thờ cả đức Thánh Trần. Phủ Tiên Hương còn lưu giữ được một số sắc phong, sớm nhất là đời Lê Chính Hòa, rồi đến Lê Vĩnh Thịnh, Lê Vĩnh Khánh đầu thế kỷ XVIII.Thánh Mẫu được tôn là “Mạ vàng công chúa”, “Mẫu nghi thiên hạ”.

Cảnh quan của phủ rất rộng rãi và thoáng đãng. Mới bước vào, du khách sẽ thấy một giếng nước tròn bên trong là ụ đất để cắm cờ khi diễn ra lễ hội. Cán cờ bằng gậy gỗ, trên đầu buộc túm lá hoặc quạ đen làm thiên sứ của trời. Lá cờ thần được treo trên đỉnh. Tiếp đến là sân lớn diễn ra các trò chơi hay là nơi những sập bán hàng được bày bán trong mùa lễ hội. au sân lớn là ba phương đình với phương du ở giữa và hai bên phương đình làm nơi gác chuông, gác trống. Tiếp nối 3 phương đình là hồ bán nguyệt, xuống hồ bán nguyệt có hai cầu được lát bằng đá, đối xứng qua hồ, bên phải là nhà bia và lầu Cậu, bên trái là nhà bia và lầu Cô.

Kiến trúc các dãy nhà tại Phủ được nối liền nhau tạo thành thể thống nhất. Mỗi nhà sẽ có phòng riêng gọi là cung, có tất cả 4 cung: Cung đệ tứ thờ Tứ phủ công đồng hay còn gọi là ban Công Đồng. Đối xứng với cung Đệ Tứ bên trái là Ban Quan lớn Thủ phủ và bên phải là Ban Chầu Thủ phủ; cung đệ tam thờ Đức Vua cha Ngọc Hoàng và Hội Đồng các quan hay Ngũ vị vương quan; Cung đệ nhị thờ Tứ Vị Chầu bà và ba bộ long ngai; Cung Đệ nhất là cung thờ Tam Tòa Thánh Mẫu. Cung này ở trong cùng. Tuy nhiên, đa phần nơi thờ Mẫu Tứ phủ có nội cung (cung cấm).

Cung cấm có khám kính đặt tượng đồng Mẫu Liễu Hạnh cùng với hai Mẫu Quang cung Quế Anh phu nhân và Quỳnh cung Duy Tiên phu nhân đều được phong thần và sắc phong. Tuy nhiên, không phải lúc nào bạn cũng có thể vào đó được mà phải có sự cho phép của ban quản lý khu di tích mới được đặt chân vào đó.

Bên cạnh các dãy nhà thờ có 1 dãy nhà nữai là Ban Trần Triều. Trong dãy nhà này có đặt ban thờ Ban Trần Triều và Ban Đức Vương Phụ, Vương Mẫu. Đằng sau nơi thờ chính là Động Sơn Trang, nơi này thờ bà Chúa Đệ Nhị Thượng ngàn Hai Chầu và mười hai cô Sơn Trang.

Phủ nằm phía bắc thôn Vân Cát xã Kim Thái, cách phủ Tiên Hương chừng 1 km. Phủ nằm giữa đền làng Vân Cát và chùa Long Vân nơi thờ Phật, vì thế tạo nên một quần thể thờ Phật – Mẫu – Thần.

Văn bia “Thánh Mẫu cố trạch linh từ bi ký” được đặt ở Ngũ Vân Lâu trước phủ do Tổng tài quốc sư quán đời Nguyễn là Cao Xuân Dục soạn năm Thành Thái Tân Sửu (1901) viết về quá trình xây dựng phủ Vân Cát: ” .. .là một lầu cổ miếu, chọn đất dựng nền từ thời Lê Cảnh Trị (1633- 1671), làm đơn giản mà đẹp, Khoảng đời Cảnh Thịnh (1794- 1800) hội nguyên Trần Gia Du, thiếu tả giám Trần Công Bản đã mở rộng ra. đến năm Kỷ Mão (1879) đời Tự đức, quan huyện Lê Kỳ đã sửa lợp lại, đến năm Thành Thái thứ 12(1900) thì hoàn thành “.

Từ cổng bước vào, du khách sẽ gặp Ngũ Vân Lâu, gác chuông với 5 cổng lớn xây dựng từ năm Tự Đức. Phía trong là hồ bán nguyệt xây bằng đá. Giữa hồ bán nguyệt có phương du nằm ở giữa và có hai cầu đá dẫn ra ngoài. Phương du gồm có ba gian làm bằng gỗ lim, mái có góc uốn cong, xung quanh lan can được ghép bằng những tường hoa bằng đá với những mảng phù điêu trạm khắc một số loài hoa và những con voi. Phương du có bốn mặt thoáng, là nơi khách đứng xem kéo chữ vào ngày hội.

Bên trong phủ có 4 cung thờ: kết câu hai cung đệ nhất và đệ nhị đều có 3 gian, và cả 2 đều được xây từ năm Tự Đức (1879). Cả hai cung đều bị giặc Pháp phá hủy mãi về sau mới được tôn tạo lại.

Cung đệ nhất là chính cung khép kín thờ Tam Tòa Thánh Mẫu, tượng bằng đồng gồm có Mẫu Thượng Thiên ngồi giữa, Mẫu Thượng Ngàn bên trái, Mẫu Thoải bên phải.

Cung đệ nhị thờ Tứ vị chầu Bà và Tam tòa quan lớn, đặc biệt có hai khám hai bên thờ Ông Hoàng Mười (bên phải) và Ông Hoàng Ba (bên trái).

Trong Phủ còn dấu tích nhiều câu đối, đại tự, hoành phi có giá trị. Ngoài ra, nét độc đáo còn nằm ở văn bia cùng ngũ vân lâu ngay tại mặt chính của đền, các công trình bố trí chặt chẽ tạo thành thể thống nhất, giữ lại nét giá trị từ ngàn đời.

Lăng mộ Thánh Mẫu Liễu Hạnh

Lăng mộ Thánh Liễu Hạnh nằm ở thôn Tiên Hương trên cồn cá chép. Ngôi mộ trước kia là bãi đất với lùm cây xanh lá, sau đó được xây thành khu nhỏ gồm gạch lát đá. Sau đó, vua Bảo Đại cầu tự được con và được thánh Mẫu báo mộng cho, năm 1938, vua Bảo Đại biết ơn mẫu và cho trùng hưng lại lăng mộ với chất liệu bằng đá xanh và 60 búp sen hồng quy mô như hiện nay.

Hướng chính của lăng là hướng Tây quay về phía núi Tiên Hương. Từ ngoài vào bước theo bậc tam cấp lên đến mộ phải qua 5 lớp tường toàn bằng đá được chạm khắc, mỗi lớp tường vuông đều có cửa, cửa được bổ trụ bằng đá vuông với ba mặt đều khắc câu đối và phía trên đặt các nụ sen bằng đá hồng nhạt tới 60 nụ sen đá.

Xung quanh lăng mộ là hàng cây 4 mùa xanh mát, 4 cột trụ chính đặt 4 góc khiến lăng mộ càng thêm long trọng và trang nghiêm. Ngôi mộ được đặt ngay chính trung tâm và ở chỗ cao nhất của cả khu lăng. Tại bốn cửa ở bậc cuối cùng đều có một bức bình phong bằng đá án ngữ. Phía sau cửa chính, nằm về hai phía góc đối diện với cửa ra vào là hai nhà bia với bốn cột vươn lên.

Bên cạnh khu lăng mộ còn có một gian nhà thờ tự với kết cấu sau: Ban thờ Mẫu nằm chính giữa, từ ngoài bước vào thì bên phải ngay cạnh ban thờ Mẫu là ban thờ Bà Cai Bản mệnh, tiếp là ban thờ đức Thánh Trần. Bên trái của Ban thờ Mẫu là ban thờ quan lớn đệ nhất và ban thờ Nhị Vị Cô Nương.

Hàng năm vào mùa lễ hội, đền đón hàng ngàn khách du lịch về trẩy hội. Hòa chung không khí tấp nập của mùa lễ hội, dân làng và du khách càng thấy hứng khởi đón chào một năm mới đầy thắng lợi./

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Trong tín ngưỡng của người Việt và của một số dân tộc thiểu số khác ở trên lãnh thổ Việt Nam, việc tôn thờ nữ thần, thờ mẫu thần, thờ mẫu tam phủ tứ phủ là hiện tượng khá phổ biến và có nguồn gốc lịch sử và xã hội sâu xa. Tuy tất cả đều là sự tôn sùng thần linh nữ tính, nhưng giữa thờ nữ thần, mẫu thần, mẫu tam phủ tứ phủ không hoàn toàn đồng nhất.

Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam là một tín ngưỡng bản địa cùng với những ảnh hưởng ngoại lai từ đạo giáo, tín ngưỡng lấy việc tôn thờ Mẫu (Mẹ) làm thần tượng với các quyền năng sinh sôi, bảo trữ và che chở cho con người. Tín ngưỡng mà ở đó đã được giới tính hoá mang khuôn hình của người Mẹ, là nơi mà ở đó người phụ nữ Việt Nam đã gửi gắm những ước vọng giải thoát của mình khỏi những thành kiến, ràng buộc của xã hội Nho giáo phong kiến. Vào hồi 17h15 giờ địa phương (21h15 giờ Việt Nam) ngày 1/12/2016, tại Phiên họp Uỷ ban Liên Chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 11 của UNESCO diễn ra tại thành phố Addis Ababa, Cộng hòa dân chủ Liên bang Ethiopia, di sản “Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” đã chính thức được UNESCO ghi danh tại Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại./

Các dạng thức thờ Mẫu Thờ Mẫu ở Bắc bộ

Bắt nguồn từ tục thờ Nữ thần có nguồn gốc xa xưa từ thời tiền sử, tới thời phong kiến một số Nữ thần đã được cung đình hoá và lịch sử hoá để thành các Mẫu thần tương ứng thời kỷ từ thế kỷ 15 trở về trước với việc phong thần của nhà nước phong kiến, hình thức thờ Mẫu thần với các danh xưng như Quốc Mẫu, Vương mẫu, Thánh Mẫu như hiện tượng thờ Âu Cơ, Ỷ Lan, Mẹ Thánh Gióng, Tứ vị Thánh nương,…

Thờ Mẫu ở Trung Bộ Thờ Mẫu ở Nam bộ

So với ở Bắc Bộ, tục thờ Nữ thần và Mẫu thần có sự phân biệt nhất định với biểu hiện rõ rệt là thông qua tên gọi và xuất thân của các vị thần thì ở Nam Bộ sự phân biệt giữa hình thức thờ Nữ thần và Mẫu thần ít rõ rệt hơn, hiện tượng này được giải thích với nguyên nhân Nam Bộ là vùng đất mới của người Việt, khi di cư vào đây họ vừa mang các truyền thống tín ngưỡng cũ lại vừa tiếp nhận những giao lưu ảnh hưởng của cư dân sinh sống từ trước tạo nên bức tranh không chỉ đa dạng trong văn hoá mà còn cả trong tín ngưỡng

Những Nữ thần được thờ phụng ở Nam Bộ như Bà Ngũ Hành, Tứ vị Thánh nương, Bà Thuỷ Long, Bà Chúa Động, Bà Tổ Cô,…và những Mẫu thần được thờ phụng như Bà Chúa Xứ, Bà Đen, Bà Chúa Ngọc, Bà Thiên Hậu,…

Liễu Hạnh công chúa

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

(đổi hướng từ Mẫu Liễu Hạnh)

Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. Mời bạn giúp hoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ.

Đền thờ Thánh Mẫu, đường Ngô Quyền, thành phố Thông tin chung Đà Lạt

Tên thật Phạm Tiên Nga

Liễu Hạnh Công chúa ( chữ Hán: 柳杏公主) là một trong những vị thần quan trọng của tín ngưỡng Việt Nam. Bà còn được gọi bằng các tên: Bà Chúa Liễu, Liễu Hạnh (柳杏), Mẫu Liễu Hạnh (母柳杏) hoặc ở nhiều nơi thuộc vùng Bắc Bộ bà được gọi ngắn gọn là Thánh Mẫu.

Truyền thuyết

Theo truyền thuyết trong dân gian Việt Nam, Liễu Hạnh là một trong bốn vị thánh Tứ bất tử. Bà vốn là con gái thứ hai của Ngọc Hoàng Thượng đế, 3 lần giáng trần. Bà đã được các triều đại phong kiến từ thời nhà Hậu Lê đến thời nhà Nguyễn cấp nhiều Sắc, tôn phong là “Mẫu nghi thiên hạ – Mẹ của muôn dân” và cuối cùng quy y cửa Phật.

Lần giáng sinh đầu tiên

Căn cứ vào ” Quảng Cung linh từ phả ký”, ” Quảng Cung linh từ bi ký” và ” Cát Thiên tam thế thực lục” hiện đang lưu giữ ở địa phương do Ban quản lý di tích – danh thắng của tỉnh Nam Định sưu tầm và một số tài liệu trong Hội đồng khoa học lịch sử Nam Định thẩm định thân thế và sự tích bà Liễu Hạnh như sau:

Vào đầu thời nhà Hậu Lê, tại ấp Quảng Nạp, xã Vỉ Nhuế, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, trấn Sơn Nam; có ông Phạm Huyền Viên, người xã La Ngạn kết duyên cùng bà Đoàn Thị Hằng, người ấp Nhuế Duệ, cũng xã Vỉ Nhuế (nay là thôn Vỉ Nhuế, xã Yên Đồng, Ý Yên, tỉnh Nam Định).

Hai ông bà là những người hiền lành, tu nhân tích đức nhưng hiềm một nỗi đã ngoài 40 mà chưa có con. Một đêm rằm tháng hai, ông bà được thần báo mộng là Ngọc Hoàng sẽ cho con gái thứ hai là Công chúa Hồng Liên đầu thai làm con, từ đó bà có thai. Trước khi sinh, vào đêm ngày 6 tháng 3 năm Quý Sửu, trời quang mây vàng như có ánh hào quang. Ông Huyền Viên ngồi đợi tin mừng, bỗng như có một nàng tiên từ trong đám mây bước xuống thềm nhà, và bà sinh một bé gái. Vì vậy ông đặt tên con là Phạm Tiên Nga.

Phạm Tiên Nga càng lớn càng xinh đẹp, mọi việc nữ công gia chánh đều thành thạo, đảm đang. Đến năm 15 tuổi đã có nhiều người đến dạm hỏi nhưng nàng đều khước từ vì nàng còn phải ở nhà chăm sóc cha mẹ già yếu, canh cửi quán xuyến công việc gia đình.

Ngày 10 tháng 10 năm Nhâm Ngọ ( 1462), cha của nàng qua đời. Hai năm sau mẹ của nàng cũng về nơi tiên cảnh. Phạm Tiên Nga đã làm lễ an táng cha mẹ ở phía đông nam phủ Nghĩa Hưng (nay là thôn La Ngạn, ở đây có đền thờ cha và mẹ của Phạm Tiên Nga).

Sau ba năm để tang cha mẹ, lo mồ yên mả đẹp, Phạm Tiên Nga bắt đầu chu du khắp nơi làm việc thiện (lúc này Tiên Nga vừa tròn 35 tuổi).

Cùng với việc đắp đê, bà còn cho làm 15 cây cầu đá, khơi ngòi dẫn nước tưới tiêu, khai khẩn đất ven sông, giúp tiền bạc cho người nghèo, chữa bệnh cho người ốm, sửa đền chùa, cấp lương bổng cho các vị hương sư, khuyên họ cố sức dạy dỗ con em nhà nghèo được học hành.

Năm 36 tuổi, bà đến bờ Sông Đồi dựng một ngôi chùa trên mảnh vườn nhỏ, đặt tên là Chùa Kim Thoa. Bên trên thờ đức Nam Hải Quan Thế Âm Bồ Tát, bên dưới thờ cha và mẹ.

Sau đó hai năm, bà tới tu sửa chùa Sơn Trường – Ý Yên, Nam Định, chùa Long Sơn – Duy Tiên, Hà Nam, chùa Thiện Thành ở Đồn xá – Bình Lục, Hà Nam. Tại chùa Đồn xá, Bà còn chiêu dân phiêu tán, lập ra làng xã, dạy dân trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải.

Tháng Giêng năm Nhâm Thìn ( 1472), bà trở lại chùa Kim Thoa, và tháng 9 năm ấy, Bà trở về quê cũ cùng các anh chị con ông bác tu sửa đền thờ Tổ họ Phạm khang trang bề thế (nay còn đền thờ ở phía nam xóm Đình thôn La Ngạn). Sau đó Bà lại đi chu du ở trong hạt, khuyên răn bà con dân làng những điều phải trái.

Lần giáng sinh thứ hai

Ngay sau khi bà mất, nhân dân xã La Ngạn, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng đã lập đền thờ trên nền nhà cũ, gọi là Phủ Đại La Tiên Từ, Đồng thời quê mẹ của Người là xã Vỉ Nhuế cũng lập đền thờ để tưởng nhớ công lao của bà, gọi là Phủ Quảng Cung.

Lần này, Bà kết duyên với ông Trần Đào, sinh được một người con trai, tên là Nhân, một con gái tên là Hoà. Giữa lúc cả gia đình đang đầm ấm vui vẻ thì bỗng nhiên, vào đúng ngày, Bà mất ngày 3 tháng 3 năm Đinh Sửu, thời Lê Gia Thái thứ 5 ( 1577). Năm ấy, Bà mới 21 tuổi, tuyệt nhiên không bệnh tật gì. Lăng mộ và đền thờ ở Phủ Dầy, thôn Thiên Hương – Vân Cát, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, Nam Định.

Hành thiện giúp đời

Giáng Tiên về trời đúng hạn định theo lệnh của Ngọc Hoàng. Nhưng khi nàng đã ở trên trời thì lòng trần lại canh cánh, ngày đêm da diết trong lòng nỗi nhớ cha mẹ, chồng con nên nàng muốn xuống trần gian lần nữa. Khi về đến nhà vừa đúng lúc gia đình đang làm giỗ mãn tang cho nàng, mọi người đều hết sức ngạc nhiên và vô cùng sung sướng. Nàng ôm lấy mẹ mà khóc, rồi kể hết sự tình, dặn anh hãy gắng lo chăm sóc cha mẹ, vì lần này xuống trần nàng không thể ăn ở như lần trước, rồi trở về nhà chồng. Liễu Hạnh gặp chồng, con cái mừng mừng tủi tủi. Nàng cũng kể rõ mọi chuyện cho chồng biết, khuyên chồng hãy cố gắng luyện chí, yên tâm theo đuổi sự nghiệp công danh, đừng quên chăm sóc con thơ, phụng dưỡng cha mẹ. Nàng quét dọn, sửa sang nhà cửa, may vá quần áo cho chồng cho con, rồi bỗng chốc lại thoắt biến lên mây… Cứ như thế, thỉnh thoảng nàng lại hiện về, làm xong các việc rồi lại biến đi. Ròng rã hàng chục năm sau, cho đến khi con cái khôn lớn và Đào Lang công thành danh toại, nàng mới từ biệt để đi chu du thiên hạ.

Tương truyền, ông đã gặp thần nữ là Liễu Hạnh công chúa cả thảy hai lần, và đều có xướng họa thơ: một lần gặp ở chùa Thiên Minh ( Lạng Sơn) khi ông đi sứ về, một lần ở Hồ Tây (nay thuộc Hà Nội) khi ông cùng với hai bạn họ Ngô và họ Lý đi chơi thuyền. Lần ở Hồ Tây, người tiên kẻ tục bèn làm thơ xướng họa liên ngâm, sau được nữ sĩ Đoàn Thị Điểm chép trong truyện “Vân Cát thần nữ” ở tập Truyền kỳ tân phả của bà. Theo nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân, thì bài thơ ấy được đặt tên là Tây Hồ quan ngư (Xem cá Hồ Tây). Bản tiếng Việt do Phan Kế Bính dịch có tên là Cảnh Hồ Tây.

Ông bèn lên tiếng ghẹo: 三木森庭,坐著好兮女子 – Tam mộc sâm đình, tọa trước hảo hề nữ tử.

Người con gái nghe vậy, đối ngay: 重山出路走來使者吏人 – Trùng sơn xuất lộ, tẩu lai sứ giả lại nhân.

Phùng Khắc Khoan hết sức kinh ngạc bèn nói tiếp: 山人憑一几,莫非仙女臨凡 – Sơn nhân bàng nhất kỷ, mạc phi tiên nữ tâm phàm.

c âu này có nghĩa: cô sơn nữ ngồi ở ghế, phải chăng là tiên nữ giáng trần? Nhưng lắt léo ở chỗ: chữ sơn 山 và chữ nhân 亻ghép lại thành chữ tiên 仙. Chữ bàng có bộ kỷ 几. Chữ nhất và chữ kỷ ghép lại thành chữ phàm 凡.

Cuộc tái hợp với Đào Lang- Người chồng kiếp trước

Hiện nay những câu đối, những dấu tích về 2 lần gặp gỡ tại Lạng Sơn và Phủ Tây Hồ còn lưu lại ở Đền Mẫu Đồng Đăng (nơi Phùng Khắc Khoan gặp Liễu Hạnh lần đầu) và Phủ Tây Hồ (lần gặp thứ hai)

Sau khi hóa về trời,do vẫn còn tâm nguyên giúp đời nên Tiên Chúa khẩn thiết xin Ngọc Hoàng Thượng đế cho trở lại cõi trần gian. Ngọc Hoàng Thượng đế lắng nghe và hiểu rõ tất cả. Ngài cho gọi hai thị nữ tin cậy là Quỳnh Hoa và Quế Hoa bảo cùng đi với Tiên Chúa.

Những sự việc ấy lọt đến tai vua Lê chúa Trịnh. Hai vị vua chúa cho rằng trước kia tiên vương thả “yêu nữ” ra là một sai lầm, bây giờ đã đến lúc cần phải thẳng tay trừng trị. Bởi vì không thể có luật lệ nào khác ngoài luật lệ của vua chúa và ai muốn làm gì cũng không được tự quyền. Thế là hai vị cho triệu hồi các thuật sĩ tài giỏi trong nước đến kinh đô trong đó có Tiền Quân Thánh (vốn là tướng nhà trời, do mắc lỗi, đã bị đày xuống trần làm con trai thứ ba của một vị thượng sư, sư tổ của phái Nội đạo tràng), giao cho dẫn một đội quân hùng mạnh, đến thẳng miền Phố Cát để đánh dẹp.

Biết là không thể chống cự lại được, Tiên Chúa bảo Quỳnh Hoa, Quế Hoa tìm cách trốn đi, còn tự mình cũng hóa phép thành đứa trẻ, rồi lại hóa phép thành con rồng có vẩy vàng vẩy bạc múa lượn trên không.

Lễ hội

Tiền Quân Thánh lúc ấy ngồi trên voi chín ngà niệm thần chú tung lưới sắt ra chụp lấy. Tiên Chúa bị bắt rồi hiện nguyên hình trở lại.

Cung thờ Sơn Trang trong Phủ Tây Hồ

Lễ hội Thánh Mẫu Liễu Hạnh hàng năm được tổ chức vào ngày 3 tháng 3 Âm lịch – ngày giỗ của bà.

Địa điểm là:

Đền Sòng Sơn ở đường Hàng Bột, Hà Nội

Lễ hội thường kéo dài vài tuần lễ. Riêng lễ hội Phủ Dầy, còn gắn liền với Hội chợ Viềng, họp vào ngày 7 tháng giêng./

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Tứ phủ công đồng hay Tứ phủ là một tín ngưỡng nằm trong của tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam. Tứ phủ bao gồm:

Thiên phủ (miền trời): mẫu đệ nhất (mẫu Thượng Thiên) cai quản bầu trời, làm chủ các quyền năng mây mưa, gió bão, sấm chớp.

Nhạc phủ (miền rừng núi): mẫu đệ nhị (mẫu Thượng Ngàn) trông coi miền rừng núi, ban phát của cải cho chúng sinh.

Thuỷ phủ (miền sông nước): mẫu đệ tam (mẫu Thoải) trị vì các miền sông nước, giúp ích cho nghề trồng lúa nước và ngư nghiệp.

Địa phủ (miền đất): mẫu đệ tứ (mẫu Địa Phủ) quản lý vùng đất đai, là nguồn gốc cho mọi sự sống.

Tam phủ và Tứ phủ Hát Chầu Văn

Tứ phủ được thờ tại hầu hết các chùa chiền ở miền Bắc Việt Nam. Tại điện Hòn Chén ở Huế, Thiên Y A Na, nguyên là một nữ thần của người Chăm, được nhập vào hệ thống tứ phủ và thờ làm Mẫu Thiên . Trong khi đó, nhiều tài liệu cho rằng ở miền Bắc, Mẫu Thiên lại là Liễu Hạnh Công chúa.

Đó là hình thức hầu đồng với 36 giá chầu:

Thỉnh Mẫu Và Quan Đệ Nhất

Linh Thiêng Lễ Giỗ Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh

Tham dự buổi lễ có đại diện lãnh đạo thành phố Vinh, Sở Văn hóa & Thể thao cùng đông đảo người dân địa phương. Ảnh: Thành Cường

Theo truyền thuyết dân gian Việt Nam, Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh là một vị thánh trong Tứ Bất Tử. Thánh Mẫu là con gái của Ngọc Hoàng, đã 3 lần giáng sinh phàm trần, hiển linh giúp dân giúp nước. Thánh Mẫu từng được triều đại phong kiến từ thời Lê đến thời Nguyễn cấp nhiều sắc, tôn phong là “Mẫu nghi thiên hạ” và được nhân dân cả nước thờ phụng, tôn vinh.

Ông Đậu Vĩnh Thịnh – Phó Chủ tịch UBND thành phố Vinh đánh trống khai lễ. Ảnh: Thành Cường

Lễ tế Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Ảnh: Thành Cường

Lễ giỗ Đức Thánh Mẫu được tổ chức hàng năm vào ngày 3/3 âm lịch hàng năm tại Đền Hồng Sơn là hoạt động văn hóa tâm linh đặc biệt của nhân dân thành phố Vinh hướng về cội nguồn dân tộc; đồng thời cũng là dịp nhắc nhở cháu con thế hệ hôm nay và mai sau phải khắc ghi ơn sâu các bậc tiền nhân đã có công dựng nước và giữ nước.

Diễn xướng hầu đồng – một nghi lễ quan trọng của đạo Mẫu tại lễ giỗ. Ảnh: Thành Cường

Tại đền Đức Sơn, hay còn gọi là đền Thánh Mẫu ở xóm Bắc Sơn, xã Vân Diên, huyện Nam Đàn, lễ giỗ Mẫu năm nay diễn ra trong không khí trang nghiêm, thành kính. Lễ giỗ gồm lễ yết cáo (đêm mồng 2) và lễ đại tế (sáng mồng 3) do UBND xã Vân Diên tổ chức. Ban hành lễ là các chị em phụ nữ với trang phục truyền thống chỉnh tề thực hiện các nghi lễ dâng hương, dâng hoa, lễ cúng theo đúng phong tục địa phương.

Ngay từ sáng sớm người dân đã mang cỗ lễ đi đền giỗ Mẫu. Ảnh: Huy Thư

Tại Đền Bà Chúa – Di tích Lịch sử – Văn hóa cấp tỉnh ở xóm 3, xã Thanh Đồng, huyện Thanh Chương, lễ giỗ Mẫu được bắt đầu từ sáng ngày mồng 2 tháng 3 âm lịch với lễ khai quang, sau đó là lễ yết cáo (buổi chiều); sáng mồng 3/3 tổ chức lễ đại tế.

Ngay từ sáng sớm, rất đông người dân địa phương đã thành kính mang lễ vật đến bày biện chu tất trên các bàn thờ trong đền. Lễ giỗ Mẫu tại Đền Bà Chúa được xem là một kỳ lễ trọng tại địa phương.

Một con gà cỗ độc đáo của người dân đi dâng lễ tại đền Bà Chúa (Thanh Chương). Ảnh: Huy Thư

Dịp này, không chỉ ở Đền Đức Sơn, Đền Bà Chúa mà nhiều đền, phủ khác trong tỉnh như Đền Cờn (TX Hoàng Mai), Đền Ông Hoàng Mười (Hưng Nguyên), Phủ Nhà Bà (Thanh Chương)… đều long trọng tổ chức lễ giỗ Mẫu. Từ lâu, lễ giỗ Mẫu đã trở thành một nét đẹp trong văn hóa truyền thống của dân tộc.

Cúng đại tế trong lễ giỗ Mẫu tại đền bà Chúa (Thanh Chương). Ảnh: Huy Thư

Theo các tài liệu, lễ giỗ Mẫu có nguồn gốc lịch sử và xã hội sâu xa, là một phần trong tín ngưỡng thờ Mẫu tại Việt Nam. Việc thờ các nữ thần, đặc biệt là Tam tòa thánh Mẫu (mẫu Liễu Hạnh, mẫu Thượng Ngàn, mẫu Thoải) hiện khá phổ biến trong các đền, phủ ở Nghệ An (có thể thờ chung hoặc thờ riêng) với nhiều nghi thức linh thiêng, trong đó thực hành diễn xướng hầu đồng là một hoạt động đặc biệt.

Tín ngưỡng thờ Mẫu đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại vào năm 2016./.

Bạn đang xem bài viết Thánh Lễ Giỗ 3 Năm Của Đức Cố Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Hòa trên website Iseeacademy.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!