Top 9 # Cung To Nghe Toc Gom Nhung Gi Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Iseeacademy.com

Bà Chúa Xứ Hay Nguyên Nhung Thánh Mẫu

Bà Chúa Xứ hay Nguyên Nhung Thánh Mẫu

Bà Chúa Xứ còn được gọi là Thánh Mẫu nương nương, có một sự tích rất là huyền bí và mầu nhiệm. Theo đồng bào địa phương, tượng Bà trước kia ngự trên đỉnh núi Sam, gần Pháo Đài, nơi đây ngày nay chỉ còn hai Vết lõm lớn trên bệ đá xanh. Vùng này trước thuộc Thủy Chân Lạp, những năm 1820 – 1825, quân Xiêm thường xuyên quấy nhiễu nước ta. Lên đến đỉnh núi Sam thì gặp tượng Bà, họ định tâm ăn cắp nên cùng nhau cạy ra muốn khiêng xuống núi, nhưng họ khiêng không nổi vì bỗng nhiên tượng Bà trở nên nặng vô cùng. Khiêng đi không được. Một tên trong đó tức giận làm gãy cánh tay trái của Bà, ngay lập tức hắn bị Bà trừng phạt. Từ đó, Bà thường hiện về tự xưng là Bà Chúa Xứ dạy dân cách lập miếu thờ để Bà phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, tránh được giặc cướp, thoát khỏi dịch bệnh.

Sau này khi người Việt Nam tới làm chủ vùng này, dân cư lập thôn xóm ở rải rác chung quanh chân núi. Một ngày kia dân làng gặp thấy tượng Bà ở giữa rừng, bèn họp nhau định khiêng về lập miếu thờ cúng, nhưng bao nhiều người cũng không sao xê dịch nơi. Dân làng bèn cầu khấn, được Bà nhập đồng vào một người đàn bà tu hành, tự xưng là Bà chúa của xứ này và phong cho dân làng dùng bốn chục nữ đồng trinh tắm rửa sạch sẽ, Bà sẽ cho phép khiêng tượng Bà về thờ (có tích nói là 9 cô gái đồng trinh).

Dân làng làm đúng theo lời Bà phong, quả nhiên bốn mươi nữ đồng trinh khênh được tượng Bà từ triền núi xuống tới chân núi, nơi hiện nay có miếu Bà. Tượng Bà khiêng tới đây bỗng nhiên trì xuống không xê dịch nữa. Các quan viên kỳ lão cho rằng Bà Chúa Xứ đã chọn nơi đây để an ngự, do đó miếu Bà được đựng nên tại chỗ.

Theo lời các cụ phong lại, dưới thời vua Minh Mạng, khi Thoại Ngọc Hầu đến trấn giữ vùng này, gặp lúc quân Miên kéo sang quấy rối không ngớt, Thoại Ngọc Hầu phu nhân thường đến khấn lễ Bà Chúa Xứ để xin phù hộ cho chồng bà dẹp được giặc, tái lập cảnh an cư cho dân làng, và lời cầu nguyện của phu nhân đã thực hiện, Bà Chúa Xứ đã giúp Thoại Ngọc Hầu phá tan giặc Miên.

Để tạ ơn Bà, Thoại Ngọc Hầu phu nhân đã cho xây cất lại miếu, và nhân dịp này mở đại lễ linh đình trong ba ngày liền 24, 25 và 26 tháng Tư âm lịch. Từ đó về sau thành lệ, hàng năm dân làng cúng lễ Vía Bà từ 23 đến 27 tháng Tư.

Sự Linh Ứng:Theo lời các bô lão địa phương thuật lại, Bà Chúa Xứ đã hiển linh nhiều lần. Một lần quân Xiêm sang quấy phá vùng Cháu Phú, một tên giặc đã làm gãy cánh tay Bà, liền bị bẻ cổ hộc máu chết tươi. Lại có một lần, một tên kẻ trộm lên vào miếu Bà gỡ sợi dây chuyền vàng nơi cổ Bà, Đà liền bẻ tay và hành tội đi trồng cây chuối kêu la thất thanh.

Theo dân chúng quanh vùng núi Sam, tượng Bà mỗi ngày một lớn dần. Trước kia, tượng Bà nhìn thẳng ra đường, nhưng vì dân chúng qua lại miếu Bà, nhiều người vô ý không ngả nón chào, Bà cho là Vô lễ. Bà nhập đồng báo cho dân làng và yêu cầu dân làng hướng tượng Bà về phía trong, lưng xoay ra ngoài. Tượng bà đã đổi hướng. Nhiều lần Bà nhập đồng chữa bệnh, và bệnh nhân mắc các chứng nan y đã được Bà chữa khỏi.

Lễ hội:Lễ hội vía Bà Chúa Xứ Núi Sam được công nhận là lễ hội cấp quốc gia, sách Kỷ lục Việt Nam ghi nhận “Ngôi miếu lớn nhất Việt Nam” và “Tượng bà bằng đá sa thạch xưa và lớn nhất Việt Nam. Tương truyền lúc đầu miếu bà làm bằng tre lá, nằm trên vùng đất trũng, quay lưng về núi Sam. Về sau miếu dần được sửa chữa và mở rộng quy mô. Đây là một di tích nổi tiếng ở khắp vùng Đồng bằng sông Cửu Long, hàng năm thu hút gần 2 triệu lượt người đến cúng bái, số tiền khách thập phương hỷ cúng tại miếu mỗi năm lên đến hàng chục tỷ đồng. Nhiều dự án giao thông, trường học, trạm cấp nước phục vụ cho dân làng Vĩnh Tế đã được xây dựng từ nguồn tiền này. Ngày nay, cứ đến dịp lễ người ta phục dựng lại cảnh rước bà từ nơi đỉnh núi Sam ngay đúng nơi bà ngự ngày xưa về miếu bà, những cô gái đồng trinh cũng được chọn lựa để thực hiện nghi lễ, ngoài ra còn có nghi lễ tắm bà, phát lộc, lễ thinh sắc, các trò diễn, hát bội, múa võ, nhạc ngũ âm,…

Nguồn gốc:

Có tích cho rằng: Hoàng tử Ấn Độ khi đi tìm lãnh địa mới, lập ra đế chế Phù Nam, đã dùng thuyền cập vào Núi Sam, khi núi này còn là hòn đảo đá ngập phần chân ở dưới nước biển, đưa pho tượng đem từ Ấn Độ sang đặt trên núi để đánh dấu chủ quyền. Núi Sam cao 284m, dài 2 Km, chu vi 5.200m. Tượng được đặt vững vàng trên một bệ đá này với chiều ngang 1,62m, dày 0,30m, kích thướt vừa khít khao với pho tượng.

Như vậy thực chất, tượng Bà vốn là một pho tượng đá, thể hiện dáng hình một người đàn ông trong tư thế ngồi, chân trái của tượng xếp bằng tròn, mũi bàn chân giáp với chân phải; chân phải để gập, co gối, chống thẳng bàn chân xuống mặt bệ đá. Tay trái của tượng ở tư thế chống nạnh, bàn tay xoải xuống mặt bệ đá, phía sau đùi trái. Tay phải tượng thả tự nhiên, bàn tay úp trên đầu gối phải. Tóc tượng uốn thành những búp xoăn, thả về phía sau. Trên mặt tượng có một vành ngấn, là nơi đặt mão lên đầu tượng. Trên cánh tay để trần của tượng có một vành đai, giống như cái vòng đeo tay. Toàn bộ dáng hình của pho tượng là dáng hình một người đàn ông tràn đầy sức sống, với bộ ngực căng nở và chiếc bụng phệ. Trên ngực của tượng có một vành đai như vòng kiềng, trước ngực là hình mảnh trăng lưỡi liềm khá rộng. Toàn bộ pho tượng cao chừng 1,25 m, được tạc liền một thớt đá cùng loại, với bệ tượng dày chừng 10 cm. Về trang phục, tượng được tạc trong tư thế đang vận một chiếc khố. Ở bắp cánh tay, gần bả vai của tượng, sát nách, nổi cộm một vòng đai có hình dạng như một chiếc vòng đeo tay. Ở cổ tượng nổi cộm một vòng đai hình vòng kiềng, chỗ vòng nằm ngay ngực khá to, hình lưỡi liềm, có lẽ là một thứ vòng đeo cổ xưa. Người ta cho rằng đây chính là pho tượng thần Shiva của người Chăm bỏ lại trong quá trình di dân, về sau người Việt điểm tô lại gương mặt theo hướng nữ tính gọi là “Bà”, phần thân được giấu trong lớp áo bào của bà là một tảng đá thoạt nhìn không rõ hình dáng.

Thần Thoại: Bà Chúa Xứ Nguyên Nhung

Ảnh chưa rõ nguồn, xin phép tác giả

Sau khi nhà Nguyễn thành lập, người Việt di cư về phía Nam sinh sống. Đất Bảy Núi rất ư linh thiêng, những người lên non khai phá gặp được pho tượng thần. Dân ta biết đây là điềm lành, quyết định làm lễ rước thần về bản làng để phụng thờ. Nào ngờ ngày làm lễ rước tượng thì bức tượng nặng như cả một ngọn núi, bao nhiêu thanh niên trai tráng cũng không khiêng nổi.

Dân làng thành tâm cầu khấn mười phương Trời Phật xin cho thỉnh được tượng thần

Bà chứng tri nhập đồng vào một cô bóng:

“Ta đây là Bà chúa xứ này, bổn hiệu là Nguyên Nhung, các ngươi có lòng tín tâm muốn cung thỉnh ta thì phải có chín thiếu nữ đồng trinh khiêng tượng”.

Y theo lời Lệnh Bà phong cho, ngày lành tháng tốt chọn ra chín cô gái thân còn trinh bạch lên núi rước Bà. Quả thực linh liêng, chín cô gái khiêng được tượng Bà mang về chân núi Sam thì tượng trì xuống không khiêng lên được nữa.

Các lão làng biết đây là ý Lệnh Bà muốn ngự tại nơi này nên y theo hướng Bà nhìn mà xây cửa điện, đúng theo chỗ Bà ngồi mà dựng cung thờ.

Tượng bà trong tư thế ngồi, chân trái của tượng xếp bằng tròn, mũi bàn chân giáp với chân phải; chân phải để gập, co gối, chống thẳng bàn chân xuống mặt bệ đá.

Tay trái của tượng ở tư thế chống nạnh, bàn tay xoải xuống mặt bệ đá, phía sau đùi trái. Tay phải tượng thả tự nhiên, bàn tay úp trên đầu gối phải.

Gương mặt Bà tươi tắn, mắt mở to tròn, miệng cười rất hoan hỉ.

Đến thời vua Minh Mạng, lúc này Thoại Ngọc Hầu làm thủ trấn Vĩnh Thanh, quân Miên ở biên giới quấy rối liên miên, đích thân ông phải cầm quân dẹp loạn. Thoại Ngọc Hầu phu nhân_Châu Thị Tế tới xin Bà ban ơn phù hộ cho phu quân được qua khỏi nạn tai, sớm ngày trở về. Trong cuộc chiến lần đó, Bà nhiều lần che chở cho quân nhà Nguyễn, Thoại Ngọc Hầu toàn thắng.

Để tạ ơn Chúa Xứ Thánh Mẫu, bà Châu Thị Tế đã cho xây dựng miếu bà rộng lớn khang trang, mở đại lễ cúng kính linh đình suốt mấy ngày tháng tư âm lịch. Cũng chính nhờ Lệnh Bà phù hộ mà Thoại Ngọc Hầu đã cho đào con kênh Vĩnh Tế thành công, dân Lục Tỉnh nhờ đó mà ăn nên làm ra, an cư lạc nghiệp.

Theo lời người xưa

Nhiều lần quân Xiêm sang phá phách làm càn, đã có một tên tướng giặc dám vung kiếm vào tượng làm nứt cánh tay, Bà về bẻ cổ chết tươi.

Lần khác, một tên trộm ăn gan hùm đã lẻn vô Miếu ăn cắp sợi dây chuyền đeo trên cổ Bà, Bà hiển linh vật cho lọi tay, hành tội trồng cây chuối mà đi.

Người dân xứ Châu Đốc kể rằng tượng Bà ngày một lớn dần. Trước kia tượng quay mặt nhìn thẳng ra cổng, do nhiều chúng dân vô ý đi ngang mà không thèm xá chào Bà, Bà về ngự đồng cho lệnh quay tượng nhìn vào trong, từ đó mà tượng Bà mới quay lưng về phía cổng như ngày nay.

Người miền Nam ai cũng biết Bà Chúa Xứ Nguyên Nhung vô cùng linh thiêng, thường cứu người bệnh khổ, ban bố tài lộc. Ngày nay Vía Bà chính là ngày lành năm xưa mà Châu Thị Tế làm lễ tạ Bà.

Vào ngày này người ta cho chín cô gái rước kiệu từ nơi bà ngự trên núi Sam về tới Miếu, thỉnh bài vị của Thoại Ngọc Hầu cùng phu nhân về bên Bà, các nghệ sĩ dâng tuồng cải lương hát bội, dân chúng các nơi đổ về cúng Bà.

Lucifer

Tamlinh.org

Nên Nghe Những Gì Khi Chọn Mua Mâm Đĩa Than (Phần 1)

Chọn mua mâm đĩa than dựa vào chất âm vốn không đơn giản bởi có quá nhiều yếu tố tác động vào. Trong loạt bài viết này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu sâu hơn về vấn đề nói trên.

Đánh giá chất âm cũng như khả năng trình diễn của một hệ thống mâm đĩa than khó hơn bất cứ thiết bị nào khác. Chẳng hạn, nếu muốn nhận xét về kim đĩa than, chúng ta không thể làm được nếu không tính cả yếu tố mâm đĩa than và tay cơ, cũng như cách mà kim đĩa than tương tác với các bộ phận còn lại trong hệ thống. Tình huống tương tự cũng diễn ra với bất cứ thành phần nào làm nên hệ thống nguồn phát analog. Hiểu một cách đơn giản: không thể nào nghe chúng rời rạc, từng bộ phận được.

Mặc dù điều này đúng với bất cứ thiết bị nào trong hệ thống, các bộ phận trong hệ thống mâm đĩa than có tác động với nhau với lớn hơn tác động của preamp hay power-amp. Hơn nữa, chất lượng âm thanh cũng bị ảnh hưởng rất nhiều từ cách lắp đặt ba thiết bị nói trên. Ngoài ra, chúng ta cũng không thể không kể đến các yếu tố như kệ đặt mâm đĩa than, vị trí trong phòng, phono preamp và trở kháng của preamp đối với kim đĩa than. Bên cạnh đó, mỗi mâm đĩa than, tay cơ và kim lại có một chất âm riêng. Dù vậy, sản phẩm tốt hơn sẽ ít để lại ảnh hưởng của mình lên chất âm của toàn hệ thống, hay nói cách khác, chúng sẽ hướng đến sự trung tính nhiều hơn.

Đặc điểm nổi bật của một hệ thống mâm đĩa than cao cấp chính là việc thiếu đi những nhiễu ồn dải trầm gọi là rumble, vì thế nhiễu ồn âm nền cũng giảm đi rõ rệt, từ đó tạo nên ấn tượng âm thanh xuất hiện trên một nền âm khá tĩnh lặng. Những hệ thống mâm đĩa than chất lượng thấp thường sẽ có đem đến cảm giác âm thanh bị mờ đục, thiếu rõ ràng hơn, giống như phủ một lớp giấy bóng kính mờ để che đi hình ảnh. Khi chuyển sang một hệ thống cao cấp, lớp giấy bóng kính ấy sẽ bị bỏ đi, khiến mọi thứ bỗng trở nên rõ ràn, tươi sáng và sống động.

Ngay cả khi hệ thống mâm đĩa than không thể hiện rõ rumble, nhiễu ồn mức thấp vẫn hiện hữu khiến cho bản nhạc bị mất đi khá nhiều thông tin. Những mâm đĩa than tốt hơn, sử dụng tay cơ cao cấp hơn có thể loại bỏ lớp nhiễu ồn đó đi để người nghe chìm đắm sâu hơn vào bản nhạc. Nhìn chung, để phát hiện ra được nhiễu ồn mức thấp này không dễ, trừ khi người dùng so sánh trực tiếp từ hệ thống đang có với một hệ thống cao cấp hơn hẳn.

Một đặc điểm khác thường thấy ở những mâm đĩa than cao cấp là cảm giác âm thanh tách bạch, đến từ những nhạc cụ khác nhau. Mỗi nhạc cụ sẽ chiếm một chỗ cụ thể trên âm trường ảo, bao quanh bởi một khoảng không gian khác để chúng tách bạch khỏi các nhạc cụ còn lại. Âm thanh cao cấp sẽ không rối loạn, nhàm chán, mờ ảo mà ngược lại, rất rõ ràng, sống động và tức thời như đang được biểu diễn trực tiếp (tất nhiên, bản thân các bản thu cũng phải có được những phẩm chất này từ đầu thì mới thể hiện được).

Ngược lại, những hệ thống đĩa than chất lượng thấp sẽ khiến âm thanh phát ra từ cuối âm trường bị mờ đục đi một chút, từ đó thiếu đi sự khác biệt và thiếu luôn cả sự sống động. Sự mờ đục này không chỉ khiến âm thanh kém trực quan, khó cảm nhận được các chi tiết ở mwcsaam lượng thấp mà còn thu nhỏ lại kích thước của âm trường.

Những đặc tính âm thanh quan trọng khác phản ánh chất lượng của hệ thống đĩa than còn có độ động và tốc độ. Về lý thuyết, đĩa than không có độ động cao như CD, nhưng do Cuộc chiến âm lượng nên độ động của CD bị nén đi khá nhiều, do đó đĩa than có cơ hội thể hiện độ động tốt hơn. Độ động chính là sự tương phản giữa các nốt có âm lượng thấp nhất với các nốt có âm lượng cao nhất. Một mâm đĩa than chất lượng cao sẽ thể hiện sự tương phản này rõ rệt hơn và rộng hơn so với mâm đĩa than chất lượng trung bình. Ngoài ra, sự nổi trội về chất lượng còn thể hiện thông qua tốc độ, với khả năng tái hiện sự đột ngột, tức thời. Chẳng hạn, những đoạn attack của acoustic guitar thường sẽ rất nhanh, sắc và sống động. Những mâm đĩa than chất lượng thấp thường khó thể hiện được tốc độ này, khiến chúng bị chậm đi hẳn và thiếu sức sống so với các thiết bị chất lượng cao.

(Hết kỳ 1)

Nên nghe những gì khi chọn mua mâm đĩa than (phần 1)

Hướng dẫn cơ bản cho đặt vị trí loa trong hệ thống stereo

Nguyễn Hào

Những Lễ Hội Truyền Thống Tại Côn Đảo,Nhung Le Hoi Truyen Thong Tai Con Dao

Hàng năm cứ đến tháng 7 các cựu tù chính trị lại mong muốn trở lại Côn Đảo để cùng nhắc nhớ nhau về những câu chuyện nghĩa tình lao khổ trong 113 năm lịch sử nhà tù Côn Đảo. Hôm nay 27-7 không chỉ là ngày tri ân thương binh liệt sĩ của cả nước, còn là lễ giỗ chung (20-6 âm lịch) của những người tù chính trị đã mất tại Côn Đảo.

10 năm trước, nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã đưa ra ý tưởng về một “ngày Côn Đảo” và đến hôm nay, “ngày Côn Đảo” được long trọng tổ chức lần thứ hai.

“Nên chăng một lễ cầu siêu long trọng dành cho những người đã khuất sẽ được cử hành định kỳ hằng năm, tiếp nối từ truyền thống dân tộc như một mỹ tục mới mà chúng ta sẽ xây dựng. Ngày ấy rất có thể được chọn làm “ngày Côn Đảo” được tiến hành trong cả nước. Ngày Côn Đảo cũng là ngày hành hương dành cho thân nhân các gia đình liệt sĩ đã ngã xuống nơi đây và cũng đánh dấu ngày mở đầu mùa du lịch Côn Đảo” – nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt.

Chiều 26-7, đền thờ Côn Đảo nhộn nhịp trong đám giỗ lớn. 22 nhóm cụm dân cư và các cơ quan ở Côn Đảo tụ họp, xôn xao trong hội thi nấu ăn. Mỗi nhóm một món, các cô, các chị cắm cúi chăm chút nêm nếm thật đậm đà, trang trí thật đẹp trước khi rón rén mang bày trên bàn thờ, thắp nén nhang thơm. Trên hành lang đền thờ, dưới bóng hồng chung, từng nhóm thanh niên quây lấy những bác, những chú cựu tù, say mê nghe kể chuyện ngày xưa. Có lịch sử đặc biệt, Côn Đảo và nhất là nghĩa trang Hàng Dương thường tổ chức những đám giỗ, nhưng hôm nay ai cũng xuýt xoa: “Lần đầu tiên làm tại đền thờ, không ngờ đám giỗ lớn thế này…”.

Không lớn sao được khi đây là đám giỗ chung của hai vạn người tù đã nằm lại Côn Đảo. Từng người cựu tù tóc bạc, chân yếu, chống nạng theo nhau đến trước bàn thờ, tỏa ra các ngôi mộ trong nghĩa trang Hàng Dương. Đền thờ Côn Đảo nghi ngút khói hương, tiếng chuông trầm bổng, lời văn tế vấn vít: “Ngút ngàn sóng bể, đảo quê hương cô quạnh lúc xế tà/ Côn Lôn nhấp nhô, ngày hai bận theo hải triều lên xuống/ Vạn oan hồn lẩn khuất… Cái chết như lưỡi dao sắc cứa tim đồng đội, như lời nhắn gởi vững tin vào thắng lợi ngày mai/ Vĩnh viễn ra đi đem cái sống còn cho người ở lại, quằn quại đớn đau, vẫn rực lên niềm tin tưởng diệu kỳ/ Món nợ ân tình ngày càng lớn mãi, biết bao giờ đền đáp được ơn sâu/ Bởi cái chết chưa phải là đã hết, chết vì non sông vẫn sống mãi muôn đời…”. Không mấy trau chuốt, không chuẩn niêm luật nhưng là những lời tế được viết ra từ trong tim, ông Bùi Văn Toản, “hạt nhân” của lễ giỗ, đã chứng minh lòng thành của mình bằng mấy mươi năm làm việc cho Côn Đảo và vì Côn Đảo. “Rất khó khăn, rất vất vả từ việc thống nhất chủ trương, quan điểm đến tổ chức, đến kinh phí, nhưng việc phải làm vẫn cứ làm, việc phải thành vẫn cứ thành, ấy là do những thúc đẩy đã được ấp ủ từ những ngày tù ngục Côn Đảo” – ông nói như đinh đóng cột giữa hàng trăm công việc tổ chức đang vây bọc.

Trời sụp tối, gió lồng lộng và đúng như dự đoán, trời không đổ mưa. Nhóm múa của các cô cựu tù, lạ thay, vẫn duyên dáng, dẻo mềm trong điệu nhạc hùng tráng, những giọng hát tuổi 70 vẫn cao vút: “Giữa ngàn thác lũ nghiêng trời đất, nhưng cánh hoa kia vẫn ngược dòng… Lời hẹn hò rướm máu trong tim/ Lời dặn dò thắm thiết sao quên/ Dù chị đi, dù em đi xa mãi cuộc đời/ Nhưng nụ cười còn đó trên môi…” (Những cánh hoa ngược dòng – Hồng Nguyễn). Những bài hát của một thời cứ thế tiếp nối nhau. Dù thấm mệt sau những chuyến bay, chuyến tàu, chuyến xe dài để đến được Côn Đảo, nhưng các ông cựu tù đầu bạc tuổi 70, 80 vẫn lắc đầu khi được mời ra xe về nghỉ. Ai cũng bảo: “Tuổi già nhiều bệnh thật nhưng tinh thần mạnh, lòng vui, thế là khỏe. Không sao đâu”. Đã nhiều lần cùng các ông đến Côn Đảo, hôm nay thật sự thấy ai nấy đều như trẻ ra, dù rằng trong ba tháng chuẩn bị đã có ba ông bất ngờ từ trần, phải rút tên khỏi danh sách tham dự. Lễ giỗ kết thúc đúng với phong tục của từng gia đình người Việt khi mỗi người được chia một phần lộc cúng mang về.

Niềm vui anh hùng

“Bác sĩ đây, cứu tinh của chúng tôi đây” – ông Nguyễn Nhành chợt reo to khi vừa ngẩng lên bên ngôi mộ của Anh hùng lực lượng vũ trang Lưu Chí Hiếu, một trong những ngôi sao sáng Côn Đảo. Ông lao đến ôm chầm lấy một người đàn ông có điệu bộ quắc thước và nụ cười hiền lành, tay vẫy rối rít những người bạn đồng lao: “Bác sĩ Triết ở đây”. Lập tức, một vòng vây hình thành, quây tròn xung quanh. Bác sĩ Nguyễn Minh Triết mỉm cười gật đầu chào mọi người. Những ông cựu tù mới phút trước còn trầm mặc trước những ngôi mộ đồng đội, thoắt đã hớn hở cười, ai cũng giơ ngón tay chỉ vào mình rồi quay sang chỉ bác sĩ: “Tôi còn sống chính là nhờ ông ấy. Ông ấy đã cứu hàng ngàn sinh mệnh tù chính trị”.

Bác sĩ Triết cũng là một tù chính trị. Ông bị bắt năm 1968, vào tù, bị đày ra Côn Đảo, biết ông là bác sĩ, giám thị trại lập tức đưa ông lên phục vụ ở trạm xá. Chính nơi đây, những người tù tả tơi sau một trận tra tấn, suy kiệt sau một đợt tuyệt thực… đã được ông cấp cứu, cho thuốc, truyền dịch, tìm mọi cách giữ lại trạm xá để chăm sóc. Bốn năm ở Côn Đảo, hàng chục người phải cấp cứu mỗi ngày, bằng tấm lòng đồng đội, ông đã làm được nhiều việc hơn cả một đời bác sĩ. Ông Nguyễn Nhành, ông Mai Hồng cùng đồng thanh nói: “Ông ấy xứng đáng là anh hùng”. Bác sĩ Triết mỉm cười xua tay: “Không, chỉ là nghề nghiệp của tôi thôi. Các anh mới đáng anh hùng”.

Đây là lần đầu bác sĩ Triết trở lại Côn Đảo cùng một tập thể cựu tù chính trị lớn thế này, những lần trước ông chỉ đi với gia đình. Câu chuyện rộn ràng bất ngờ ở Hàng Dương quanh ông hôm nay mang một niềm tự hào thật đặc biệt: hôm nay, tất cả họ đều đã trở thành anh hùng với danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang được tặng cho tập thể tù chính trị Côn Đảo giai đoạn chống Mỹ.

Mỗi cựu tù chính trị đều từng quá quen thuộc với xà lim, ngục tối, chuồng cọp ở Côn Đảo, từng nhiều lần kể đi kể lại những câu chuyện thử thách ý chí và sức chịu đựng, những cuộc tấn công vào tinh thần lẫn bản năng con người, nhưng trong câu chuyện hôm nay có thể nghe rõ niềm vui, niềm tự hào lấp lánh trong từng câu nói, từng tiếng cười, từng giọt nước mắt. Bà Nguyễn Thị Lựu (Tuy Phước, Bình Định) dẫn tay người bạn đi qua khu nhà trừng giới, chỉ vào những xà lim nhỏ hẹp với cánh cửa sắt đầy đe dọa của trại Phú Hải (trại 2): “Tôi đã ở đây bốn năm, phòng tôi có năm chị mất vì suy kiệt”, rồi bà bỗng hát: “Chốn lao tù là nơi ta rèn tâm trí/ Đây cũng là chiến trường mà ta không cần vũ khí”. Nhìn đội tiêu binh rước cờ, danh hiệu Anh hùng lên sân khấu, nhiều người lại rơi nước mắt, lại nhìn vào những hàng mộ trong nghĩa trang Hàng Dương…

Cô Sáu hy sinh ngày 23-1-1952 đã trở thành một ngày hội của người dân Côn Đảo…Gia đình nào cũng làm giỗ chị. Nhà nhà mang hoa, mang lễ ra thắp hương kín mộ chị từ sáng tới khuya. Từ một liệt sỹ anh hùng hy sinh vì dân, vì nước, để rồi trở thành một vị thần hộ mệnh của nhân dân Côn Đả o, đó là điều mà chỉ có chị- người cộng sản kiên trung bất khuất hy sinh khi tuổi đời còn rất trẻ mới làm được!

Hình ảnh người con gái anh hùng Đất Đỏ Võ Thị Sáu ai ai cũng biết. Chị Sáu sinh năm 1933 tại thị trấn Đất Đỏ, huyện Long Đất. Năm 1947, khi mới 14 tuổi, Võ Thị Sáu trở thành chiến sĩ trinh sát của Đội Công an xung phong Đất Đỏ. Tết Canh Dần (1950), Võ Thị Sáu tình nguyện tìm diệt bọn ác ôn chuyên vào chợ Đất Đỏ quê chị để cướp bóc. Diệt được bọn ác ôn này, nhưng Sáu lại bị bọn ác ôn khác đuổi theo, bắt được. Tháng 4- 1950, Võ thị Sáu bị giam ở khám Chí Hòa. Bọn Pháp mở phiên tòa xử chị “án tử hình” khi chưa đủ tuổi thành niên. Pháp sợ dư luận phản đối, nên chúng đưa Võ Thị Sáu ra Côn Đảo để hành quyết. Bốn giờ sáng ngày 21-1-1952, tàu chở Võ Thị Sáu cùng với 40 tù chính trị và 3 tử tù nữa vượt biển ra Côn Đảo. Ngày 23-1-1952, người tử tù nhỏ tuổi nhất ở Côn Đảo không cho kẻ thù bịt mắt, cất cao tiếng hát “Tiến quân ca”: Đoàn quân Việt nam đi. Sao vàng phất phới… Khi giặc nổ súng, Võ Thị Sáu thét lên: Đả đảo thực dân Pháp! Việt Nam độc lập muôn năm! Hồ Chủ Tịch muôn năm!

Bảy tên đao phủ đứng cách chị vài mét, đồng loạt nổ súng, nhưng chị không chết. Vì bọn đao phủ bị hoảng loạn, run rẩy trước ánh mắt nhìn của chị Sáu.Tên đội lê dương tức giận rút súng ngắn tiến lại, dí tận mang tai chị bóp cò. Đó là 7 giờ sáng ngày 23-1-1952, Võ Thị Sáu tròn 17 tuổi.

Đã 52 năm kể từ ngày Võ Thị Sáu hy sinh, tên chị đã thành tên nhiều đường phố, trường học ở rất nhiều thành phố, thị xã trong cả nước. Chị đã bất tử đi vào thơ ca, âm nhạc, điêu khắc. Nghiêng mình Sáu hái bông hoa ven đường / Cài lên mái tóc rối tung / Cất cao tiếng hát giữa vòng lưỡi lê… (PQ). Năm 1993, Võ Thị Sáu được Nhà nước truy tặng Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Tại thị trấn Đất Đỏ, đã dựng tượng Võ Thị Sáu cao 6 mét. Ở Côn Đảo, mộ chị SÁu ở Khu B được xây lại đàng hoàng hơn. Huyện Côn Đảo cũng đã xây dựng Nhà tưởng niệm anh hùng liệt sĩ Võ Thị Sáu trong một khuôn viên rộng, kề bên núi và biển.

Ở tượng đài Võ Thị Sáu ở Đất Đỏ, lư hương khi nào cũng có những nén hương mới thắp, khói nghi ngút suốt ngày. Ở Côn Đảo, mộ chị Sáu ngày nào cũng có người đến thắp nhang. Bà con ở chợ Côn Đảo kể rằng, trước khi đi “ăn hàng” ở đất liền phải ra vái xin chị Sáu phù hộ. Anh Bảy Oanh, một cựu tù Côn Đảo hiện là Trưởng Ban quản lý Di tích Côn Đảo kể, ở Đảo bây giờ, nam nữ thanh niên trước khi làm đám cưới thường ra Hàng Dương viếng mộ chị Sáu. Họ thắp hương, cúng gương lược, rồi lầm rầm khấn vái mong chị phù hộ cho. Hiện vẫn con vài chục gia đình công chức, gác ngục thời ấy ở lại Côn Đảo, trong nhà họ đều có bàn thờ Chị Sáu. Chị Sáu đối với họ như thần hộ mệnh! Bà con gọi chị Sáu là Cô Sáu hoặc Bà Sáu. Khi thề bồi thì người ta nói: “Thề có Cô Sáu chứng giám”. Khi mắng nhau, thì bảo: “Cô Sáu vặn cổ mày đi”! Ngày 23-1 hàng năm là ngày giỗ chị Sáu. Đây là ngày giỗ rất lớn ở Côn Đảo mà Nhà nước và nhân dân đều cùng tổ chức. Ngày giỗ, nhiều người nấu cúng ở nhà. Nhiều người mang lễ vật, hoa quả, hương đèn ra Nhà tưởng niệm. Nhiều người ở Thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Cần Thơ, Đồng Tháp…, dù phải vượt biển, vẫn ra Côn Đảo giỗ chị Sáu.

Trước đây Côn Đảo lấy ngày 23/01 DL hàng năm là ngày giỗ Nữ Anh hùng liệt sĩ Võ Thị Sáu theo thông số của giấy báo tử của Thời Pháp đúng thời gian Cô đã hi sinh. Nay, ở đây chúng ta dựa vào ngày ÂL 27 tháng Chạp làm ngày giỗ của Cô, theo thông tin cập nhật từ Bảo tàng Côn Đảo, bắt đầu từ năm 2010.

Nhân mùa Vu Lan, mùa của tri ân và báo ân, vào ngày 11-8-2013, Sư cô Thích Nữ Huệ Đức (Trụ trì Quan Âm Tu Viện, chúng tôi đã dẫn đoàn gồm chư Ni và Phật tử của chùa đi thăm Côn Đảo để bày tỏ lòng tri ân sâu sắc của mình đến những vị anh hùng, liệt sĩ đã oanh liệt hy sinh cho độc lập, tự do của Tổ quốc.