Top 14 # Nhung Mon Cung Ong Dia Than Tai Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 6/2023 # Top Trend | Iseeacademy.com

Van Khan Xin Chuyen Ban Tho Ong Than Tai

Văn khấn xin chuyển bàn thờ ông thần tài

Văn khấn tại ban thờ Thần Tài cũ Văn khấn chuyển Thần Tài đến vị trí mới Sau đó chủ lễ đọc sớ thiên di linh vị thần tài

Thiên di bản gia linh vị thần đài lễ (chắp tay lễ 3 lễ)Phục dĩ (chắp tay lễ 1 lễ)Phúc lộc thọ khang ninh, nãi nhân tâm chi kỳ nguyện, Thiên di bản gia linh vị thần đài lễ đắc hanh thông phát đạt, tai ương hạn ách bằng. Thánh lực dĩ giải trừ. Nhất nhiệm chí thành, thập phương cảm cách .Viên hữu (chắp tay lễ 1 lễ)Thượng phụng (chắp tay lễ 3 lễ)Thiên thánh hiến cống, Hạ thiên tiến lễ bái thánh thần Thiên di bản gia linh vị thần đài đắc bình an thông thuận, gia đình đắc phát đạt hưng vượng (chắp tay lễ 1 lễ)Kim thần tín chủ: ………………………. tuổi………… .Ngũ thập tứ tuế.

Chủ Lễ : Tiến lễ bái thánh thần thiên di Thổ địa long mạch Tài thầnĐầu thành ngũ thể, tịnh tín nhất tâm, cụ hữu sớ văn chí tâm.Thượng phụng – Cung duy (chắp tay lễ 3 lễ)Đương xứ Thành Hoàng, Hành khiển thổ địa – Phúc đức chính thần vị tiền. Ngũ phương long mạch, Tiền hậu địa chủ,Tiếp dẫn Tài thần vị tiền. Tôn thần động thừa, chiếu giám phục nguyện.Thiên vận: ……. niên ; Ngũ nguyệt ; Sơ lục nhật

Chờ đến khi trên bàn thờ còn khoảng ¼ tuần hương thì lễ tạ

Hôm nay là ngày … tháng …. năm ……… 20…….

Tín chủ con là:……………, …….. tuổi, xin tâm thành tiến lễ bái Thánh thần lai lâm trước linh đài, thụ hưởng lễ vật và chứng giám lòng thành của chúng con. Cho phép chúng di chuyển ban thờ của chư vị Tôn thần bản gia. Chúng con thiết nghĩ, xưa nay âm có thuận dương mới hòa. Chúng con xin phép các vị Tôn thần chuyển ban thờ đắc đáo linh địa, cư trung chính gia trung, tăng thêm mãnh lực. Từ nay trở đi, tuần rằm mồng một, lễ tết, chúng con xin tôn nhang, sửa lễ dâng cúng chư vị Tôn thần để tạ ơn và xin cầu Phúc Lộc.

Kính xin chư vị phù độ cho ……………….. chúng con được nhân khang vật thịnh, khỏe mạnh, bình an, mọi sự vạn cầu sở nguyện, vạn ước khả thành, mọi công việc làm ăn hanh thông thuận toại, tài lộc dồi dào tốt tươi, bát tiết tứ thời hưởng vinh hoa phú quí.

Tín chủ: ……………………. cùng toàn gia chúng con xin rập đầu bái tạ !

Lưu ý: Thắp hương liên tục trong 7 ngày, (Nên thắp hương vòng, hoặc để liên tục 1 đèn đỏ), hằng ngày (trong 7 ngày đầu tiên) buổi sáng để 1 chén nước, một lọ hoa và khấn:

Tín chủ con:………….. đã chuyển ban thờ tới nơi đây từ ngày…. tháng ….. năm ……….. 20….. . Kính cáo chư vị Thổ địa Tài thần, thượng trung hạ đẳng thần an tọa vào bát hương trên ban thờ ở đây, phù hộ độ trì cho con sức khỏe, khang ninh, bách sự toại tâm, vạn sự như ý.Chúng con xin vô cùng cảm tạ !

Văn Khấn Thổ Địa Van Khan Than Tai Tho Dia Doc

Ngày vía của là ngày mùng 10 tháng giêng âm lịch.

Ngày vía của Thần Tài mọi người thương mua : 1 bình bông, 1 con tôm, 1 con cá lóc nướng, 1 con cua, 1 miếng heo quay, 1 bộ giấy tiền vàng mã, 1 đĩa quả, chum rượu, để cúng lấy vía Thần Tài, cầu xin cho năm mới làm ăn phát đạt.

Trong tháng thường cúng Thần Tài

Ngoài ngày vía chính của Thần Tài là ngày mùng 10 tháng giêng âm lịch. Nhưng mọi người vẫn chọn ngày mùng 10 âm lịch hằng tháng để cúng Thần Tài, cầu xin cho may mắn về tài lộc trong tháng đó, nên trở thành thông lệ.

Thông thường thì vào ngày mùng 1 và ngày 15 âm lịch, cùng với bàn thờ Tổ tiên và các bàn thờ khác trong nhà, hoặc vào ngày mùng 10 âm lịch hàng tháng. Cúng Thần Tài để trả lễ khi gặp vận hên tài lộc.

Đồ cúng thường là các món ăn ngon như heo vịt quay, gà, hoa quả, nước uống hàng ngày… Dân gian truyền miệng Thần Tài rất thích món Cua biển và heo quay, chuối chín vàng.

Thường ngày nên đốt nhang mỗi sáng từ 6h – 7h và chiều tối từ 6h – 7 giờ, mỗi lần đốt 5 cây nhang. Thay nước uống khi đốt nhang, thay nước trong lọ hoa, và chưng thờ nải chuối chín vàng.

Tránh để các con vật chó mèo quậy phá làm ô uế bàn thờ Thần Tài.

Hàng tháng thường lau bàn thờ, tắm cho Thần Tài vào ngày cuối tháng và ngày 14 âm lịch với nước lá bưởi, hay rượu pha nước. Khăn lau và tắm cho Thần Tài không được dùng vào việc khác.

Khi thỉnh tượng Thần T ài, Thổ Địa ngoài cửa hàng về, cần gói bọc trong giấy đỏ, hoặc trong hộp sạch sẽ, mang vào chùa nhờ các Sư trong chùa “Chú nguyện nhập Thần”, và nhờ các Sư chọn cho ngày tốt đem về nhà để an vị Thần Tài, Thổ Đại.

Về nhà dùng nước lá bưởi rửa và đặt lên bàn thờ, mua các đồ cúng về cúng khấn là được, lần sau cúng vái bình thường. Ai muốn thờ Thần Tài Thổ Địa đều phải thực hiện như trên, Thần Tài, Thổ Địa mới có linh khí.

Khi thỉnh Thần Tài, Thổ Địa cũng có Thần Tài, Thổ Địa hợp với gia chủ, cũng có Thần Tài, Thổ Địa không hợp với gia chủ, chọn tượng Thần Tài, Thổ Địa mặt tươi cười, mặt sáng sủa, tượng không bị nứt, vỡ, nhìn tượng toát lên vẻ phú quý.

Việc cầu xin tài lộc được nhiều hay ít còn phụ thuộc vào lòng thành của gia chủ, phước đức và số vận của gia chủ. Thần Tài, Thổ Địa không thể cho hay biếu người khác, phải tự gia chủ thỉnh về.

Đặt bàn thờ Thần Tài Thổ Địa

Bàn thờ Thần Tài, Thổ Địa đặt dưới đất, nơi trang nghiêm hướng ra cửa chính.

Văn khấn Thần Tài Thổ Địa

Lễ Cúng Thần Nước Của Người Ê Đê,Le Cung Than Nuoc Cua Nguoi E De

Lễ cúng thần nước của người Ê đê

Lễ cúng thần nước của người Ê đê được tổ chức hằng năm sau mùa thu hoạch để cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no hạnh phúc. Đây cũng là một trong những hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng mang nhiều ý nghĩa tích cực trong đời sống tâm linh của đồng bào dân tộc Êđê.

Khai Mạc Lễ Hội “Mưa Phố Núi” Tại Đà Lạt

Lễ cúng thần nước của người Ê đê được tổ chức hằng năm sau mùa thu hoạch để cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no hạnh phúc. Đây cũng là một trong những hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng mang nhiều ý nghĩa tích cực trong đời sống tâm linh của đồng bào dân tộc Êđê.

Suốt thời gian diễn ra lễ cúng bến nước, ở nhà tiếng chiêng không ngừng vang. Tiếng chiêng không chỉ là các thông điệp báo với các thần linh để bộc lộ nỗi băn khoăn về sự sống và cái chết mà còn là những tâm sự hay sự đuổi bắt tâm tưởng của những con người khác nhau. Có lẽ vì vậy mà âm nhạc cồng chiêng người Ê Đê Đăk Lăk mang nặng tính suy tưởng về những sinh hoạt ấy, là nơi cộng cảm, gặp gỡ giữa con người với thần linh. Lễ cúng bến nước được tổ chức hàng năm. Người cúng thường là người đứng đầu buôn hay còn gọi là chủ bến nước.

Sau khi đã chuẩn bị đầy đủ lễ vật, chủ cúng và 2 người hầu lễ mang trang phục cổ của người Ê Đê ra bến nước để làm lễ. Với những bộ trang phục này họ tin giống như những bộ trang phục của các vị tổ tiên xưa khi ra trận. Đối với mỗi bến nước số người hầu lễ có thể thay đổi nhưng số người đã chọn phải giữ nguyên từ năm này sang năm khác. Ba người cầm các đạo cụ tương ứng của mình. Người dâng lễ mang tiết của hòa với rượu và cái thủ lợn. 1 người mang theo thanh gươm, dao khu và 1 cái khiên bằng gỗ, đây là những đồ vật của dòng họ nhà vợ ông chủ bến nước để lại chỉ trong dịp lễ trọng đại này nó mới được mang ra khỏi nhà. Bởi đó là những vật cổ và có ý nghĩa linh thiêng vô cùng quan trọng đối với mỗi thành viên trong gia đình.

Sau mỗi lượt cúng, thầy cúng lại tưới nước lên thịt đặt trong lá cây Ê nang. Hành động này thay cho lời mời thần linh của các vị thần ở những chốn lân cận cùng các vị thần linh thiêng về hưởng lễ vật dâng cúng hôm nay. Kết thúc lễ cúng ở bến nước, họ quay vể phía làng làm lễ dưới gốc cây cổ thụ. Đây được coi là hàng rào xưa bảo vệ nơi cư ngụ của các giàng, thần thổ địa của làng.

Người Ê Đê có đời sống tín ngưỡng tâm linh phong phú. Cũng như nhiều dân tộc sinh sống trên dải đất Trường Sơn Tây Nguyên. Một trong những phong tục tập quán lâu đời nhất của đồng bào dân tộc Êđê là Lễ cúng bến nước hay thần nước.

Bà Chúa Xứ Hay Nguyên Nhung Thánh Mẫu

Bà Chúa Xứ hay Nguyên Nhung Thánh Mẫu

Bà Chúa Xứ còn được gọi là Thánh Mẫu nương nương, có một sự tích rất là huyền bí và mầu nhiệm. Theo đồng bào địa phương, tượng Bà trước kia ngự trên đỉnh núi Sam, gần Pháo Đài, nơi đây ngày nay chỉ còn hai Vết lõm lớn trên bệ đá xanh. Vùng này trước thuộc Thủy Chân Lạp, những năm 1820 – 1825, quân Xiêm thường xuyên quấy nhiễu nước ta. Lên đến đỉnh núi Sam thì gặp tượng Bà, họ định tâm ăn cắp nên cùng nhau cạy ra muốn khiêng xuống núi, nhưng họ khiêng không nổi vì bỗng nhiên tượng Bà trở nên nặng vô cùng. Khiêng đi không được. Một tên trong đó tức giận làm gãy cánh tay trái của Bà, ngay lập tức hắn bị Bà trừng phạt. Từ đó, Bà thường hiện về tự xưng là Bà Chúa Xứ dạy dân cách lập miếu thờ để Bà phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, tránh được giặc cướp, thoát khỏi dịch bệnh.

Sau này khi người Việt Nam tới làm chủ vùng này, dân cư lập thôn xóm ở rải rác chung quanh chân núi. Một ngày kia dân làng gặp thấy tượng Bà ở giữa rừng, bèn họp nhau định khiêng về lập miếu thờ cúng, nhưng bao nhiều người cũng không sao xê dịch nơi. Dân làng bèn cầu khấn, được Bà nhập đồng vào một người đàn bà tu hành, tự xưng là Bà chúa của xứ này và phong cho dân làng dùng bốn chục nữ đồng trinh tắm rửa sạch sẽ, Bà sẽ cho phép khiêng tượng Bà về thờ (có tích nói là 9 cô gái đồng trinh).

Dân làng làm đúng theo lời Bà phong, quả nhiên bốn mươi nữ đồng trinh khênh được tượng Bà từ triền núi xuống tới chân núi, nơi hiện nay có miếu Bà. Tượng Bà khiêng tới đây bỗng nhiên trì xuống không xê dịch nữa. Các quan viên kỳ lão cho rằng Bà Chúa Xứ đã chọn nơi đây để an ngự, do đó miếu Bà được đựng nên tại chỗ.

Theo lời các cụ phong lại, dưới thời vua Minh Mạng, khi Thoại Ngọc Hầu đến trấn giữ vùng này, gặp lúc quân Miên kéo sang quấy rối không ngớt, Thoại Ngọc Hầu phu nhân thường đến khấn lễ Bà Chúa Xứ để xin phù hộ cho chồng bà dẹp được giặc, tái lập cảnh an cư cho dân làng, và lời cầu nguyện của phu nhân đã thực hiện, Bà Chúa Xứ đã giúp Thoại Ngọc Hầu phá tan giặc Miên.

Để tạ ơn Bà, Thoại Ngọc Hầu phu nhân đã cho xây cất lại miếu, và nhân dịp này mở đại lễ linh đình trong ba ngày liền 24, 25 và 26 tháng Tư âm lịch. Từ đó về sau thành lệ, hàng năm dân làng cúng lễ Vía Bà từ 23 đến 27 tháng Tư.

Sự Linh Ứng:Theo lời các bô lão địa phương thuật lại, Bà Chúa Xứ đã hiển linh nhiều lần. Một lần quân Xiêm sang quấy phá vùng Cháu Phú, một tên giặc đã làm gãy cánh tay Bà, liền bị bẻ cổ hộc máu chết tươi. Lại có một lần, một tên kẻ trộm lên vào miếu Bà gỡ sợi dây chuyền vàng nơi cổ Bà, Đà liền bẻ tay và hành tội đi trồng cây chuối kêu la thất thanh.

Theo dân chúng quanh vùng núi Sam, tượng Bà mỗi ngày một lớn dần. Trước kia, tượng Bà nhìn thẳng ra đường, nhưng vì dân chúng qua lại miếu Bà, nhiều người vô ý không ngả nón chào, Bà cho là Vô lễ. Bà nhập đồng báo cho dân làng và yêu cầu dân làng hướng tượng Bà về phía trong, lưng xoay ra ngoài. Tượng bà đã đổi hướng. Nhiều lần Bà nhập đồng chữa bệnh, và bệnh nhân mắc các chứng nan y đã được Bà chữa khỏi.

Lễ hội:Lễ hội vía Bà Chúa Xứ Núi Sam được công nhận là lễ hội cấp quốc gia, sách Kỷ lục Việt Nam ghi nhận “Ngôi miếu lớn nhất Việt Nam” và “Tượng bà bằng đá sa thạch xưa và lớn nhất Việt Nam. Tương truyền lúc đầu miếu bà làm bằng tre lá, nằm trên vùng đất trũng, quay lưng về núi Sam. Về sau miếu dần được sửa chữa và mở rộng quy mô. Đây là một di tích nổi tiếng ở khắp vùng Đồng bằng sông Cửu Long, hàng năm thu hút gần 2 triệu lượt người đến cúng bái, số tiền khách thập phương hỷ cúng tại miếu mỗi năm lên đến hàng chục tỷ đồng. Nhiều dự án giao thông, trường học, trạm cấp nước phục vụ cho dân làng Vĩnh Tế đã được xây dựng từ nguồn tiền này. Ngày nay, cứ đến dịp lễ người ta phục dựng lại cảnh rước bà từ nơi đỉnh núi Sam ngay đúng nơi bà ngự ngày xưa về miếu bà, những cô gái đồng trinh cũng được chọn lựa để thực hiện nghi lễ, ngoài ra còn có nghi lễ tắm bà, phát lộc, lễ thinh sắc, các trò diễn, hát bội, múa võ, nhạc ngũ âm,…

Nguồn gốc:

Có tích cho rằng: Hoàng tử Ấn Độ khi đi tìm lãnh địa mới, lập ra đế chế Phù Nam, đã dùng thuyền cập vào Núi Sam, khi núi này còn là hòn đảo đá ngập phần chân ở dưới nước biển, đưa pho tượng đem từ Ấn Độ sang đặt trên núi để đánh dấu chủ quyền. Núi Sam cao 284m, dài 2 Km, chu vi 5.200m. Tượng được đặt vững vàng trên một bệ đá này với chiều ngang 1,62m, dày 0,30m, kích thướt vừa khít khao với pho tượng.

Như vậy thực chất, tượng Bà vốn là một pho tượng đá, thể hiện dáng hình một người đàn ông trong tư thế ngồi, chân trái của tượng xếp bằng tròn, mũi bàn chân giáp với chân phải; chân phải để gập, co gối, chống thẳng bàn chân xuống mặt bệ đá. Tay trái của tượng ở tư thế chống nạnh, bàn tay xoải xuống mặt bệ đá, phía sau đùi trái. Tay phải tượng thả tự nhiên, bàn tay úp trên đầu gối phải. Tóc tượng uốn thành những búp xoăn, thả về phía sau. Trên mặt tượng có một vành ngấn, là nơi đặt mão lên đầu tượng. Trên cánh tay để trần của tượng có một vành đai, giống như cái vòng đeo tay. Toàn bộ dáng hình của pho tượng là dáng hình một người đàn ông tràn đầy sức sống, với bộ ngực căng nở và chiếc bụng phệ. Trên ngực của tượng có một vành đai như vòng kiềng, trước ngực là hình mảnh trăng lưỡi liềm khá rộng. Toàn bộ pho tượng cao chừng 1,25 m, được tạc liền một thớt đá cùng loại, với bệ tượng dày chừng 10 cm. Về trang phục, tượng được tạc trong tư thế đang vận một chiếc khố. Ở bắp cánh tay, gần bả vai của tượng, sát nách, nổi cộm một vòng đai có hình dạng như một chiếc vòng đeo tay. Ở cổ tượng nổi cộm một vòng đai hình vòng kiềng, chỗ vòng nằm ngay ngực khá to, hình lưỡi liềm, có lẽ là một thứ vòng đeo cổ xưa. Người ta cho rằng đây chính là pho tượng thần Shiva của người Chăm bỏ lại trong quá trình di dân, về sau người Việt điểm tô lại gương mặt theo hướng nữ tính gọi là “Bà”, phần thân được giấu trong lớp áo bào của bà là một tảng đá thoạt nhìn không rõ hình dáng.