Top 12 # Phong Tục Cúng Giỗ Đầu Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 5/2023 # Top Trend | Iseeacademy.com

Cách Cúng Giỗ Đầu Như Thế Nào Cho Đúng Phong Tục

Đối với người đã khuất, giỗ đầu rất quan trọng thể hiện tấm lòng tiếc thương đến người đã khuất. Chính vì thế cần có sự chuẩn bị thật sự chu đáo, trang nghiêm sao cho đúng văn hóa phong tục của người Việt Nam. Cách cúng giỗ đầu và thời gian cúng giỗ đầu như thế nào sẽ được chúng tôi cung cấp thông tin ngay dưới đây

Giỗ đầu của người đã mất rất quan trọng, vì thế việc xem giỗ đầu cúng vào ngày nào để có sự chuẩn bị chu đáo. Thông thường thì lễ cúng giỗ đầu tức là ngày tưởng nhớ tròn một năm kể từ khi người mất. Hay còn được gọi là ngày lễ tiểu tường.

Trong ngày này thời gian còn chưa được lâu chính vì thế mà trong lòng người thân vẫn mang sự đau đớn, nhớ thương. Và thông thường giỗ đầu cúng vào ngày nào? Nó được làm vào ngày mất của người đã khuất hoặc có thể cúng trước đó 1 ngày. Tùy theo quan niệm và tâm linh của từng gia đình.

Cách cúng giỗ đầu cũng rất quan trọng. Trong ngày này con cháu trong nhà gần gũi vẫn mặc tang phục để chứng với vong hồn người đã khuất một nỗi nhớ thương chưa nguôi ngoai. Và khi làm lễ thì con cháu cũng khóc thương khi đưa tang người khuất.

Đối với cách cúng giỗ đầu của người mất những gia đình có điều kiện thường mời khèn trống về để thổi cho đến hết ngày giỗ. Trong ngày lễ tiểu tường này con trai của người đã mất lúc hành lễ phải dùng gậy để đáp lễ của khách đến ăn giỗ trước ban thờ của cha mẹ để tỏ lòng hiếu kính của con cái đối với cha mẹ.

Trong dịp này con cháu trong nhà cũng đốt mã cho người đã khuất. Hành động này cúng rất cần thiết và quan trọng để người mất có đủ đồ dùng ở thế giới bên kia như : quần áo, xe cộ, nón mũ, thuyền bè … có cả hình nhân để theo hầu người mất. Tập tục này đã có từ rất lâu đời, trong tâm linh của người Việt ta. Trước ngày giỗ nên kính báo với tổ tiên và mời tiên tổ hai bên cùng các vị Thần linh, Thổ địa về cùng âm hưởng.

Trong ngày giỗ đầu thì nên cúng gì

Tùy thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh của mỗi gia đình mà thực hiện sắm lễ cúng trong ngày giỗ đầu. Tuy nhiên với giỗ đầu cúng gì xin được gợi ý các bạn một số lễ sắm sau đây: Vào ngày này lễ cúng cũng như những ngày giỗ khác với đầy đủ các lễ là: hương, hoa quả, oản phẩm, vàng mã và một mâm cơm mặn gồm có: gà, xôi, nem, giò lụa, chả, các món rau xào và canh. Được trình bày đẹp mắt tuy nhiên không cần quá cầu kỳ được dâng lên ban thờ để cúng. Cùng nén nhang và tấm lòng thành để báo hiếu.

Như vậy, với những thông tin quan trọng có liên quan đến dịp cúng giỗ đầu tiên. Hi vọng sẽ giúp bạn có thêm những kiến thức và thông tin bổ ích về ngày cúng giỗ đầu để sử dụng khi cần thiết.

Thủ Tục Cúng Giỗ Và Văn Khấn Giỗ Đầu

Giỗ chạp là một trong những tập tục có từ lâu đời của người Việt Nam ta bao đời nay. Thủ tục cúng giỗ và những bài văn khấn cúng giỗ cần được chuẩn bị một cách chu đáo và cẩn trọng để tỏ lòng thành kính của con cháu đối với người đã khuất.

Thủ tục cúng giỗ

Theo tập quán của người Việt Nam từ lâu cho đến nay thể hiện tinh thần uống nước nhớ nguồn của con cháu đối với ông bà, cha mẹ những người đã khuất. Trong thủ tục cúng giỗ theo âm Hán là Húy nhật hay còn được gọi là ngày kỷ niệm ngày mất của ông bà, tổ tiên. Chính vì thế, ngày trước ngày cúng giỗ chính gia chủ hoặc con cháu trong nhà phải làm lễ báo cho người hưởng giỗ được biết để về hưởng giỗ. Sau đó mới đến ngày cúng giỗ chính.

Thủ tục cúng giỗ tùy theo mỗi gia đình mà chuẩn bị the truyền thống, thói quen của mỗi gia đình cũng khác nhau. Có nhà chuẩn bị đơn giản là mâm cơm chay cùng với hương hoa, chè thuốc, bánh, trái, nước, rượu .. dâng lên ban thờ và khấn mời người hưởng giỗ về. Có gia đình tụ họp con cháu đông đủ sửa soạn thịnh soạn để dâng lên ông bà, gia tiên và cúng giỗ.

Vì thế mà thực đơn cúng giỗ mỗi nhà ở mỗi vùng miền khác nhau cũng khác.

Thông thường thực đơn cúng giỗ không quá cầu kỳ, mà được làm một cách đơn giản. Các cụ chứng cho tâm thành của con cháu chứ không chứng lễ mà dâng lên. Vì thế đây cúng là dịp thể hiện được tính văn hóa và nét đẹp trong truyền thống của người dân Việt bao đời nay. Thể hiện được tâm thức uống nước nhớ nguồn của người Việt Nam

Văn khấn giỗ đầu như thế nào

Để ngày giỗ đầu được diễn ra chu đáo và suôn sẻ bạn xem qua bài văn khấn giỗ đầu sau

Con xin lạy chín phương trời, con lạy mười phương chư phật, chư phật mười phương Con cúng kính lạy Đức Hoàng Thiên Hậu Thổ và các chư vị Tôn thần. Con cũng kính lạy ngài Bản gia Táo Quân, ngài Bản gia Thổ Công, các vị Long Mạch, vị Thần tài. Con cúng kính lạy các ngài là Thần linh cai quản trong xứ này. Hôm nay là ngày: tháng năm Ngày hôm nay là ngày giỗ đầu của: Con cùng toàn thể con cháu trong gia đình thể theo nghi lễ, sắm sửa các hương hoa và lễ vật xin kính dâng lên trước án tọa của các vị Tôn thần cúng các chư vị uy linh xin kính cẩn tâu trình. Và kính cáo các vị Bản gia Thổ công, Táo quân, Long Mạnh và các vị Thần linh, cúi xin được minh chứng và phù hộ cho toàn gia quyến cúng con được an ninh khang thái và vạn sự được tốt lành. Xin kính thỉnh các Tiên linh, và Gia Tiên chúng con cùng những vong hồn nội tộc được thờ phụng cùng về hâm hưởng. Với lễ bạc thâm thành, chúng con cúi xin được phù hộ độ trì.

Văn Khấn Khi Trong Phong Tục Cúng Giỗ

Trong phong tục thờ cúng tổ tiên thì lễ cúng vong linh người đã khuất vào các kỳ giỗ: ông, bà, bố, mẹ, chồng (vợ) là quan trọng nhất. Cúng giỗ gia tiên thể hiện đạo hiếu, thể hiện tấm lòng thủy chung thương tiếc của người đang sống với người đã khuất. Nên vào ngày giỗ của tổ tiên, nhà giàu thì có tổ chức cúng lễ linh đình mời họ mạc gần xa, anh em bằng hữu về dự, còn nhà nghèo túng thì bát cơm, quả trứng, đĩa muốỉ, lưng canh với ba nén hương, cây đèn dầu cúng người đã khuất. Và trong khi cung giỗ, không thể thiếu văn khấn. Theo tục xưa:

Nếu bố đã chết thì phải khấn là: Hiển khảo

Nếu mẹ đã chết thì phải khấn là: Hiển tỷ

Nếu ông đã chết thì phải khấn là: Tổ khảo

Nếu bà đã chết thì phải khấn là: Tổ tỷ

Nếu cụ ông đã chết thì phải khấn là: Tằng tổ khảo

Nếu cụ bà đã chết thì phải khấn là: Tằng tổ tỷ

Nêu anh em đã chết thì phải khấn là: Thệ huynh, Thệ đệ

Nếu chị em đã chết thì phải khấn là: Thể tỵ, Thể muội

Nếu cô dì chú bác đã chết thì phải khấn là: Bá thúc; Cô di, Tỷ muội.

Hoặc khấn chung là Cao tằng tổ khảo, Cao tằng tô tỷ nội ngoại gia tiên.

Vài điều cần lưu ý khi cúng giỗ tô tiên:

Đổi với ngày giỗ của ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng (còn gọi là giỗ trọng) thì hôm trước ngày giỗ cần phải có cúng cáo giỗ. Ngày hôm cúng cáo giỗ còn gọi là ngày tiên thường.

Cúng cáo giỗ là để báo cho người đã khuất biết ngày hôm sau về hưởng giỗ, đồng thời là để báo vối Thần linh, Thể địa nơi để mộ người đã khuất cũng như Công thần Thổ địa tại gia cho phép người đã khuất được về hưỏng giỗ. Cúng cáo giỗ bao gồm cúng tại gia và cúng ngoài mộ. Trong cúng cáo giỗ phải cúng Công thần Thổ địa trước, cúng gia tiên sau. Ngoài việc khấn mời vong linh người được giỗ ngày hôm sau, còn phải khấn mời vong linh hương hồn gia tiên nội ngoại cùng về dự giỗ. Nhân dịp cúng giỗ ngoài mộ cần đắp sửa lại mộ phần.

Trong cúng giỗ đúng vào ngày mất của người được hưỏng giỗ cần phải cúng mời người được hưỏng giỗ trước, sau đó mối đến vong linh hai họ nội, ngoại từ bậc cao nhất trở xuống và cuốỉ cùng là cáo thỉnh gia thần cùng dự tiệc giỗ.

Phong Tục Cúng Giỗ Của Người Hà Nội Xưa

Riêng giỗ, ông cha ta xưa rất coi trọng. Cúng giỗ tổ tiên, ông bà, cha mẹ, được coi là “báo hiếu”, là ngày con cháu tưởng nhớ đến công lao sinh thành, xây nếp đắp móng của các vị tiền hiền, và cầu xin vong linh các vị phù hộ độ trì cho.

Các cụ chia giỗ làm hai loại: giỗ trọng và giỗ thường

Giỗ trọng là giỗ những người thân mới mất, thường là ông bà, cha me. Còn giỗ thường là giỗ những người ở thế hệ xa hơn: cụ kỵ, chú bác, cô, anh chị… Các cụ vẫn truyền cho con cháu câu: “Ngũ đại mai tiền chi” (năm đời không còn chủ), tức là từ đời thứ 5 trở lên (đời kỵ) các cháu chắt không phải cúng giỗ nữa, nhưng những ngày tết và những ngày giỗ khác, các vị từ đời thứ năm trở lên vẫn được tiến chủ (người đứng lễ) khấn, mời về “đồng hưởng” cùng vong linh những người đã khuất của gia đình.

Nhân dân ta mang truyền thống “uống nước nhớ nguồn” nên hàng năm những vị khai sáng ra một dòng họ – được suy tôn là “khởi tổ” hoặc “thuỷ tổ” – vẫn được chắt chút cúng giỗ ở nhà thờ “đại tôn” (nhà thờ của họ).

Trong khoảng 20 năm trở lại đây, nhiều nhà thờ họ được xây lại, được tôn tạo sửa chữa tôn tạo và việc cúng giỗ tổ tiên được khôi phục. Họ nội nhà tôi là một họ nhỏ, lại phân tán, kỳ giỗ Tổ tộc họ hàng năm cũng được 6-7 chục chắt chút về dự. Họ ngoại của tôi là một họ lớn, mỗi lần giỗ tập trung tới 5-7 trăm người ở khắp nơi trong cả nước và ở cả nước ngoài. Đó là dịp để các chắt chút… của Tổ gặp nhau, trước tỏ lòng thành kính với Tổ, sau là nhận họ, nhận hàng.

Nhiều họ, ngày giỗ Tổ còn là ngày động viên chắt, chút… làm những việc tốt, tuyên dương những chắt, chút mới tốt nghiệp đại học, trên đại học, có phần thưởng cho những chút, chít mới đỗ vào đại học hoặc học giỏi. Ở Phú Thọ, còn có phong trào “dòng họ tự quản” với những “tộc ước” rất cụ thể.

Riêng ngày giỗ trọng thì mỗi gia đình tổ chức một khác

Quê tôi xưa thuộc ngoại thành Hà Nội, nay là quận Hoàng Mai, có một nếp sống rất đẹp là đám ma đám giỗ thì tuỳ tâm gia chủ, tổ chức như thế nào do gia đình bàn bạc thống nhất. Các cụ truyền dạy: “Đó là việc hiếu, mọi người đến không phải vì cỗ to, vì miếng ăn, mà là để tưởng nhớ người đã mất, vì họ hàng làng xóm tối lửa tắt đèn có nhau”. Vì vậy, các đám ma, đám giỗ ở quê tôi, không ai buông một lời chê, không có cãi vã, to tiếng, say rượu, cờ bạc…

Các cụ rất coi trọng cỗ, chứ không coi trọng cỗ. Ngày giỗ lấy tâm thành là chính chỉ cần “bát cơm, quả trứng” cúng là đủ. Vì vậy, hầu như tất cả các gia đình ở Hà Nội, dù làm giỗ to nhỏ, nhiều ít, mâm cao cỗ đầy như thế nào thì gần cuối buổi lễ đều dâng lên bàn thờ một bát hoặc một liễn cơm và một quả trứng (hột) vịt hoặc gà luộc đã bóc vỏ, và bóp vỡ một chút ở chỗ ít lòng trắng để lộ phần lòng thêm một ít muối bên cạnh.

Xưa những đám giỗ trọng ở quê tôi có hai cách tổ chức gàn như là lệ làng: Làm mở rộng đối với những giỗ mới, nhất là giỗ đầu (một năm sau ngày mất và giỗ hết (hai năm sau ngày mất, có nhà làm vào ngày thứ 100 sau hai năm gọi là giỗ bỏ tang hay “bỏ trở” – từ sau ngày đó, con cháu không phải để trở).

Làm trong phạm vi hẹp (chú bác, anh chị em, con cháu) rượu từ giỗ sau giỗ bỏ tang trở đi. Gia chủ có làm rộng cũng ít người đến.

Về cỗ, quê tôi có hai loại, tuỳ hoàn cảnh gia đình mà chọn:

– Làm cỗ bình thường (quê tôi gọi cỗ “bàn than”): chỉ có mấy món chế biến từ thịt lợn: luộc, rang, lòng, có thể thêm đĩa giò.

– Làm cỗ to (gọi là cỗ “đồ Tàu”) có những món cầu kỳ hơn, thường mỗi mâm có có bốn bát và tám đĩa: giò, nem, ninh, mọc, nấm, bóng…

Có gia đình khá giả làm cả bò, lơn, gà (hoặc dê) gọi là cỗ “tam sinh”.

Những giỗ làm theo phạm vi rộng thường 30 mâm, có nhà tới hàng trăm mâm, trong phạm vi hẹp độ 5- 10 mâm (mỗi mâm 6 người).

Trước ngày giỗ độ 10 ngày, ông trưởng (con trai đầu) mời tất cả con trai, con gái của người mất đến họ để thống nhất cách làm giỗ và phân công mỗi người một nhiệm vụ; người mua thực phẩm, người mượn bát đũa, mâm nồi, người dựng rạp. Các người con tự nguyện đóng góp, tùy khả năng và tùy tâm, không bổ bán, không chia đều. Sau khi thống nhất, hai vợ chồng trưởng nam phải đích thân đi mời từng nhà: “Tiếng chào cao hơn mâm cỗ!”, có nhà ế hàng chục mâm cỗ chỉ vì sơ suất khi mời.

Cũng như các nơi khác, quê tôi nhà nào cũng có một bàn thờ gia tiên đặt ở gian giữa – nơi trang trọng nhất, từ hai cột chính đến sát tường sau. Nhà nghèo thì bàn thờ là một tấm gỗ sơn đỏ nối hai cột chính với hai cột sau. Trên tường chính giữa dán một vuông giấy đỏ có viết một chữ Hán to “Phúc” hoặc “Thần”. Trên tấm gỗ, đặt ba bát hương, bát giữa kê cao hơn thờ thần linh, bát bên phải thờ gia tiên và bát bên trái thờ các “bà cô, ông mãnh” – những người chết chưa vợ, chưa chồng và được gia đình coi là linh thiêng. Hai góc trước của bàn thờ có hai cây nến tiện bằng gỗ.

Nhà khá hơn thì bàn thờ là một án thư có trang trí hoa văn, sơn son hoặc sơn then (đen), đèn nến bằng gỗ tiện sơn son. Nhà giàu thì chạm trổ “tứ linh” (bốn con vật thiêng: long (rồng), ly (kỳ lân), quy (rùa), phượng (chim phượng hoàng); mặt trước án thư là một tấm gỗ quý chạm “mai long” (cây hoa mai uốn hình rồng) hoặc chữ “ngũ long” (năm con rồng quây thành một vòng tròn), tất cả đều bằng sơn son thếp vàng.

Trên án thư có bộ “tam sự” bằng đồng, có nhà còn thêm bộ đài rượu bằng gỗ sơn son hoặc bằng đồng (gồm ba khối hình ống, đáy cao, có nắp đậy, trên mỗi đáy đặt một chiếc chén hạt mít, khi cúng cơm, gia chủ mở nắp, rót vào chén). Có nhà thêm ống cắm hương chưa thắp, mâm bồng để bày hoa quả…

Những năm từ giữa thế kỷ XX, khi kỹ thuật chụp ảnh phổ cập, thì trên án thư còn đặt ảnh những người đã mất; trên tường sau còn treo một bức hoành, có 3-4 chữ Hán to, ghi nguyện vọng, sự cầu mong của gia đình và đôi câu đối phẳng hoặc hình lòng máng nói về công đức của tổ tiên và lòng hiếu của con cháu; tất cả đều sơn son thiếp vàng.

Ở các nhà thờ “đại tôn”, sau án thư là một tấm cửa võng, chạm trổ tinh vi, sơn son thiếp vàng, phía sau treo hai cánh màn bằng vóc hoặc nhiễu đỏ, ngăn án thư với “hậu cung”, khi cúng, gia chủ vén màn sang hai bên, để lộ cung sau. Hậu cung là một cái bục lớn, cao ngang án thư bằng gỗ hoặc xây gạch, sát đến tường sau, trong cùng có một chiếc bàn vuông, trên đặt chiếc ngai sơn son thiếp vàng, trên ngai đặt chiếc bài vị gỗ mấy dòng chữ Hán: họ, chi, quê…

Hai bên ngai, đặt hai giá cắm nến; khi cúng, gia chủ thắp nến để chiếu sáng cho cung. Trước ngai có một chiếc mâm gỗ vuông cao để đặt cỗ khi cúng cơm. Thường vào ngày giỗ trong, nhà ông trưởng nam tấp nập từ chiều hôm trước, để hoàn tất việc chuẩn bị và để cúng cơm.

Thường vào ngày giỗ trọng, nhà ông trưởng nam tấp nập từ chiều hôm trước, để hoàn tất việc chuẩn bị và để cúng “tiên thường”. Hôm giỗ, mọi việc diễn ra khẩn trương từ 2-3 giờ sáng dưới ánh đèn đuốc, nhóm giết lợn, giết bò, chuẩn bị thực phẩm, người vo gạo, thổi xôi… Tiếng cóc cách giã giò hoà tiếng lao xao người nọ hỏi người kia, lệnh của ông trưởng vang vang… tạo ra một không khí nhộn nhịp của một nhà có đám.

Khoảng 8 giờ sáng, các mâm cỗ đã xong, một hoặc ba mâm được để lên bàn thờ (hoặc cung sau). Ông trưởng nam, áo the khăn xếp, bước lên chiếc sập trước bàn thờ để thắp hương, đèn nến rồi đứng giữa sập, hai tay chắp giữa ngực, lên gối xuống gối lễ ba lần, đoạn đứng nghiêm, mười ngón tay đan vào nhau và đưa lên ngang trán, miệng lầm rầm khấn.

Bài nhấn có ba phần. Mở đầu là ngày tháng năm (âm lịch), tại nhà thờ ở thôn, xã, huyện, tỉnh… tiến chủ tên gì, nhân ngày giỗ ai, thành tâm cúng tiến những gì. Phần sau là gia chủ kính mời từ thần linh, thổ địa, táo quân… đến tên họ và hiệu, nơi an táng các vị trong gia đình theo thứ tự từ trên xuống (chỉ khấn nam và dâu họ, nữ không khấn, trừ trường hợp chết chưa có chồng).

Cuối bài khấn là những cầu xin. Khấn xong, ông trưởng nam lễ một lễ và ba vái nữa, rồi rót rượu cúng. Một số họ lớn, khi giỗ tổ họ, tổ chức dâng hương tế tổ và thay bài khấn bằng một bài văn tế, ông trưởng lễ xong thì đọc bài văn tế, rồi đem ra sân đốt như đốt sớ ở đình chùa.

Khi ông trưởng nam khấn xong, những người đến dự giỗ lần lượt già trước, trẻ sau vào lễ, người nào cũng đem một ít hoa, quả hoặc vàng hương, trầu rượu đặt lên bàn thờ rồi lễ, mỗi người ba lễ một bái, nam thì lễ như ông trưởng, nữ thì ngồi vào góc sập, chắp hai tay trước ngực, khi cúi thì giáp mặt tận chiếu, hai bàn tay xoè ra đặt hai bên đầu. Những bà gia đình có đại tang (bố mẹ hoặc chồng mới chết) phải lật một phần chiếu, ngồi xuống mặt sập, hai tay lật ngửa vòng khăn trắng quấn tóc mà lễ.

Thường cháy dở tuần nhang (hương) thứ hai thì cúng cơm và cuối tuần nhang thì ông trưởng nam tạ lễ, hoá vàng rồi hạ cỗ cho con cháu xin lộc.

Sơ qua phong tục cúng giỗ của người Hà Nội khoảng giữa thế kỷ XX như vậy để thấy ông cha ta rất cẩn trọng khi cúng giỗ. Giỗ là để họp mặt gia đình, để tưởng nhớ và noi gương tốt của những người thân trong gia đình đã mất, đó là việc hiếu, là một hoạt động tâm linh của người Việt nói chung, người Hà Nội nói riêng. Nó mang nặng tính truyền thống và là một phong tục đậm đà bản sắc dân tộc, cần được duy trì.

Khoảng trên chục năm nay, khi đời sống nói chung khấm khá, việc cúng giỗ được nhiều gia đình, dòng họ khôi phục. Nhưng do không hiểu hết ý nghĩa đúng hoặc không có ai hướng dẫn, hoặc cố tình làm to, làm trong diện rộng để khoe khoang, để thu lời.

Có người đi ăn giỗ để đền ơn người sống, để hối lộ, nên đặt lên bàn thờ không phải đồ lễ mà là phong bì… làm cho đám giỗ mất đi ý nghĩa cổ truyền của nó, gây một sự ganh đua giữa các gia đình, tạo điều kiện cho một số việc làm xấu, một số tệ nạn xã hội – thường là cờ bạc, đốt vàng mã – phát triển.