ĐỀN THỜ PHẬT MẪU
Đền thờ Phật Mẫu hiện nay nằm trên đại lộ Phạm Hộ Pháp, chỉ là đền thờ tạm thời. Đền ấy chỉ là Báo Ân Từ (Nhà thờ các bậc anh tài tiền bối).
Đền thờ chính định cất trên khoảng đất rộng 4 mẫu, trước cửa số 1, lộ Bình Dương Đạo. Đền sẽ rộng lớn bằng Đền Thánh vì Ngôi Dương (Đức Chí Tôn) và Ngôi Âm (Đức Phật Mẫu) đồng quyền nhau.
MỘT SỐ NGHI TIẾT TAÏI ĐỀN THỜ PHẬT MẪU ĐỊA PHƯƠNG
Cách lập đàn :
Chư Thiện tín đến chầu lễ Đức Phật Mẫu nơi Điện thờ Phật Mẫu địa phương phải đến trước giờ hành lễ, sắp hàng trước sân Điện thờ Phật Mẫu.
– Đến giờ, Lễ vụ kệ chuông nhứt :
Văn chung khấu hướng huệ trưởng Càn khôn ( dộng một tiếng chuông)
Pháp giái chúng sanh đồng đăng bỉ ngạn. (dộng một tiếng chuông)
Aùn Dà Ra Đế Dạ Ta Bà Ha . (dộng một tiếng chuông)
– Khi kệ chuông nhứt dứt, tất cả sắp hàng tuần tự, tay bắt ấn tý để trước ngực, đi vào chánh điện, phân làm ba ban : phía trong nhìn ra, phái nữ vào căn giữa và căn bên hữu, phái nam vào căn bên ta û đứng hầu.
– Lễ xướng : “TỊNH TÚC THỊ LẬP ” tất cả đứng lên trang nghiêm yên lặng.
– Lễ xướng : “CHẤP SỰ GIẢ CÁC TƯ KỲ SỰ”, Chư vị có trách nhiệm trong Đàn phải chuẩn bị lo phận sự.
– Lễ Vụ kệ chuông nhì :
Nhứt vi u ám tất giai văn . (dộng một tiếng chuông)
Nhứt thiết chúng sanh thành chánh giác (dộng một tiếng chuông)
Aùn Dà Ra Đế Dạ Ta Bà Ha (dộng một tiếng chuông)
– Lễ xướng : “CUNG THÀNH THỨ TỰ NAM NỮ NHẬP ĐÀN” , Lễ vụ khắc ba tiếng chuông, tất cả xá Đàn bước vào vị trí hành lễ, hướng vào bàn thờ Đức Phật Mẫu, chờ nhạc tấu Huân-Thiên.
– Khi nhập Đàn cúng Đức Phật Mẫu thì tay bắt ấn tý xá ba xá, quì xuống, để tay lên trán, niệm :
– NAM MÔ DIÊU TRÌ KIM MẪU VÔ CỰC THIÊN TÔN. – NAM MÔ CỬU VỊ TIÊN NƯƠNG. – NAM MÔ BAÏCH VÂN ĐỘNG CHƯ THÁNH.
Mỗi câu xá xuống một xá, đủ 3 xá rồi thì để tay ấn tý nơi ngực mà đọc kinh.
Khi Đồng nhi tụng dứt bài kinh : Niệm hương, Phật Mẫu Chơn kinh, dâng hoa, dâng Rượu, dâng Trà, Sớ văn, Ngũ nguyện đều lạy 3 lạy, mỗi lạy 3 gật , mỗi lần gật niệm : “Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn”.
Khi dâng Tam Bửu cũng nguyện như tại Thánh Thất, nhưng thay vì “dâng cho Đức Chí Tôn”, thì tại Điện thờ Phật Mẫu ” dâng cho Đức Phật Mẫu”.
Sau phần Ngũ nguyện, chư vị quì cúng, lạy xong đứng dậy thì chư thiện tín nam nữ già yếu vào bái lễ Đức Phật Mẫu theo sự sắp đặt của Ban trật tự Đàn cúng, khi bái lễ không cầu viện chỉ niệm :
– Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn. – Nam mô Cửu vị Tiên Nương. – Nam mô Bạch Vân Động Chư Thánh.
Lạy 3 lạy, mỗi lạy 3 gật, mỗi gật niệm ” Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn”. Gật 9 lần niệm 9 lần.
Chờ bái lễ xong, đứng phân ban Nam Nữ nghiêm chỉnh Nghi lễ kệ 3 câu chú :
– Đàn tràng viên mãn Chức sắc qui nguyên Vỉnh mộc từ ân phong điều võ thuận. (dộng một tiếng chuông)
– Thiên phong hải chúng Quốc thới dân an. Hồi hướng đàn đường tận thâu pháp giái. (dộng một tiếng chuông)
Aùn dà ra Đế Dạ Ta Bà Ha. (dộng một tiếng chuông)
Sau rốt, Nghi lễ khắc 3 tiếng chuông bãi Đàn.
Khi bãi Đàn, đồng đạo tuần tự theo hàng đi ra như nhập Đàn, không tẻ hàng qua lại bái lễ nơi Bàn thờ Tả ban. Muốn bái lễ những nơi này thì phải chờ mọi người tuần tự ra hết rồi mình mới trở vào bái lễ cho khỏi trở ngại.
Thường ngày, sau những thời cúng nơi Điện thờ Phật Mẫu, đồng Đạo có tụng kinh Di Lặc, kinh Cứu khổ để cầu nguyện cho chúng sanh và chư Chơn Linh quá vảng. Mặc dù sau mỗi bài kinh đều có tụng câu chú của Thầy 3 lần : “NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG BỒ TÁT MA HA TÁT”, nhưng khi lạy Đức Phật Mẫu thì phải niệm : “NAM MÔ DIÊU TRÌ KIM MẪU VÔ CỰC THIÊN TÔN”.
Căn cứ lới phê của Đức Hộ Pháp năm Tân Mão (1951) nơi Điện thờ Phật Mẫu địa phương không được tổ chức lễ HỘI YẾN DIÊU TRÌ CUNG . Nguyên văn lời phê như sau :
“HỘI YẾN DIÊU TRÌ CUNG là lễ đặc biệt Hiệp Thiên Đài chủ quyền và chỉ làm tại Đền Thờ Phật Mẫu tại Toà Thánh mà thôi, không nơi nào có phép làm lễ ấy. Nếu sái lịnh sẽ bị trừng phạt một cách nghiêm khắc”.
Vào năm Nhâm Thìn (1952) nhân dịp sửa chữa lại Báo Ân Từ (tạm dùng làm nơi thờ Đức Phật Mẫu) , Đức Phạm Hộ Pháp có chỉ cho các thợ hồ công quả đắp các pho tượng sau :
1.Trên hết đắp chơn dung Đức Phật Mẫu cỡi thanh loan. 2. Dưới đắp 9 pho tượng của Cửu Vị Tiên Nương. 3. Liên tiếp đắp 4 vị Nữ nhạc hầu Đức Phật Mẫu là : Đổng Song Thành, Vương Tử Phá, Hứa Phi Yến, An Phát Trinh. 4. Tượng Đông Phương Sóc (Nhà văn hoá đời Hán biết nghe tiếng chim) quì nâng 4 quả đào Tiên. 5. Tượng Đức Cao Thượng Phẩm quì trước sân Hoa Điện Cổ Tự.
Đức Hộ Pháp chỉ dạy về việc đắp chơn dung như sau :
“Hình của Đức Phật Mẫu là đắp theo hình chưng cộ bông Cửu Nương lần đầu tiên vào tháng 8 năm Đinh Hợi. Thầy có chỉ cho Chí Thiện Trạch, Trần Phong Lưu và Tá Lý Kía cất giữ, coi theo đó mà làm mẫu, theosự tích đời Hán Võ Đế bên Tàu, hồi đó mượn bức ảnh của Bà Phối Sư Hương Hiếu.
Đức Phật Mẫu có từ thuở khai thiên do khí Âm Dương tạo thành, có quyền năng vô đối, vô biên, vô lượng, cũng như Đức Chí Tôn, hữu hữu vô vô, nắm trọn bí quyết nhiệm mầu của Càn Khôn Vũ Trụ. Chớ không phải Bí pháp biến thành Thể Pháp do hiện tượng sự tích đời Hán Võ Đế. Đó chỉ là mượn ý tạc hình, chớ Phật Mẫu vốn vô vi”.
Đức Phạm Hộ Pháp nói về việc cầu Phật Mẫu của Hán Võ Đế như sau :
“Vào tiết trung thu, 15 tháng 8 năm Ngọ, đầu giờ Tý, vua Võ Đế quì trước chùa thành tâm cầu khẩn. Đúng 12 giờ, thanh loan đáp trước sân Hoa Điện, Vua ra thỉnh Đức Phật Mẫu ngự tại Chánh Điện.
Đức Phật Mẫu dạy 4 Nữ nhạc trao 4 quả đào Tiên cho Hán Võ Đế và Đông Phương Sóc quì rước lộc Việc tạo hình Đức Cao Thượng Phẩm thay cho Hán Võ Đế là Hớn Chung Ly giáng sanh thành lập quốc gia. Kỳ Hạ nguơn nầy, Đức Cao Thượng Phẩm cũng là chơn linh của Hớn Chung Ly tái thế lập thành Quốc Đạo, nên tạo hình Đức Cao Thượng Phẩm thuận hơn”.
Còn bức tường phía ngoài, đối diện với các tượng Cửu Vị Nữ Phật, thì Đức Ngài cho tạc hình Nam Bình Vương Phật.
“Chừng nào có đền thờ Phật mẫu thì Thầy cho biết, không gì lạ. Vì Đền Thánh tượng trưng cho Bạch Ngọc Kinh tại thế, có hình Hộ Pháp mặc khôi giáp, thì nơi đền thờ Phật Mẫu, tượng trưng Lôi Âm Tự, lẽ dĩ nhiên tạc hình của Ngài, nhưng không mặc Thiên phục mà chỉ mặc áo cà sa mà thôi”.
“Từ lúc đưa tay nắm đạo quyền”, Đức Cao Thượng Sanh tiếp tục để hoàn thành kiến thiết cơ bản. Ngài cho xây dựng cửa Chánh Môn, 12 cửa Nội ô Toà Thánh, các Thánh Thất, các Điện thờ Phật Mẫu ở 18 phận Đạo và ở các Châu Tộc xa xôi.
Ngài còn hoài vọng xây Đền Thờ Phật Mẫu nên chấp bút học hỏi, được Bát Nương dạy :
“Nơi nào trong vùng Đạo không là Thánh Địa? Vạn Pháp Cung (sân đình Núi Bà), phần đất gần Hàm phong cạnh cửa số 7 Nội ô, đều có thể xây Đền mới được”.
Vì theo ý Ngài, phần đất trước cửa Hoà Viện (số 1) ngày nay nhơn sanh ở dày đặc, khó giải toả, nên Bà Bát Nương giáng dạy như trên và còn cho biết kích thước Đền Thờ mới như sau :
Về kích thước, bằng kích thước Đền Thánh. Về các Đài thì tổng hợp giữa Đền Thánh và Báo Ân Từ, nghĩa là mặt tiền Đền thờ Phật Mẫu giống như Báo Ân Từ, có khác hơn : Đài giữa gọi là Lôi Âm Tự cao bằng lầu chuông, trên đỉnh có 3 vòng Tam Thanh, ngược lại, hai Đài hai bên thì thấp hơn 6 thước, mà hình trụ cụt ( giống như lầu chuông bị cắt ngang, xem hình). Đài bên phải xây vườn Ngạn Uyển hình mặt nhựt, bên trái xây ao Thất Bửu hình mặt nguyệt. Bốn góc có 4 hình trụ, đỉnh hình cầu giống Đền TâjMahal bên Aán Độ. Đền thờ vị Nữ Vương này.
Vườn Ngạn Uyển phải trồng đủ 12 sắc hoa tượng trưng 12 con giáp. Ao Thất Bửu phải cẩn đủ 7 loại báu qúi : Pha Lê, Xà cừ, Châu, Ngọc, Vàng, Bạc, Đồi mồi.
Ở mặt sau, nơi thờ Phật Mẫu, cũng xây Đài Bát Giác như Bát Quái Đài, nhưng gọi là Tạo Hoá Thiên hành khiển “Bát hồn vận chuyển hoá thành chúng sanh”, trên đỉnh có tượng Tam Thánh Bạch Vân Động. (bên ngoài Bát giác, bên trong nội tiếp đường tròn, chỉ vòng vô vi xem hình). Vì câu liễn trước Đền Thờ Phật Mẫu là :
BÁT phẩm chơn hồn tạo thế giái hoá chúng sanh vạn vật hữu hình tùng thử ĐAÏO. QUÁI hào bác ái định càn khôn phân đẳng pháp nhứt thần phi tướng trị kỳ TÂM.
Toàn thể bên ngoài sơn toàn một màu trắng (màu đạo, khi các con về với Mẹ phải mặc đồ toàn trắng), trừ mái ngói sơn màu đỏ, không được vẽ hình gì cả.
Bên trong Đền Phật Mẫu vẫn trần thiết cách thờ như cũ : tạc tượng Phật Mẫu và Cửu Vị Nữ Phật, hai bên thờ các Thánh tử Đạo. Đối diện với tượng Phật Mẫu ( ở ngoài đi vào) là tượng Nam Bình Vương Phật (tức tượng Đức Hộ Pháp mặc áo cà sa).
Từ Nam Bình Vương Phật đến tượng Phật Mẫu phải có 8 bậc tượng trưng Bát Cảnh Cung (Đền Thánh có 9 bậc là Cửu Thiên khai hoá). Trong nội điện có sơn màu như cũ.
Tấm vách sau lưng Nam Bình Vương Phật, phía ngoài tức mặt trước thì tạc tượng “Thiên cơ chuyển hoá” tức lấy sự tích trong 9 bài Cửu mà Hội Thánh Phước Thiện đã vẽ và đã cho xuất bản.
Tóm lại, Đền thờ mới vẫn gọi là Đền Thờ Phật Mẫu, mặt tiền có 3 lầu, cao nhứt là Lôi Âm Tự, hai bên có Ao Thất Bửu và Vườn Ngạn Uyển.
Tấm vách dưới Lôi Âm Tự có tạc tượng ” Thiên cơ chuyển hoá” (chỗ mà Đền Thánh tạc tượng Tam Thánh). Cung thờ Phật Mẫu gọi là Tạo Hóa Thiên, đối diện với tượng Phật Mẫu là tượng Nam Bình Vương Phật.
Sau đó Đức Thượng Sanh giải thích thêm :
Khi Đền Thờ Phật Mẫu cất xong, việc thờ phượng dời đến cơ sở mới thì Báo Ân Từ được sắp xếp lại cho đúng chơn truyền. Chỗ cũ thờ Đức Phật Mẫu, đắp một quả Địa cầu sơn màu xanh, trên có đắp hình nước Việt Nam theo chiều dài sơn màu vàng. Tất cả nằm trên nền trắng hình chữ nhựt. Ở dưới thờ bằng bài vị hoặc bằng hình ( không đắp tượng) các Hiền triết, các nhà bác học, các bậc vua chúa có công với đời. Vì tất cả chúng sanh đều do Đức Chí Tôn phân tánh giáng sanh, tuy họ có lập trường, có chủ nghĩa khác nhau, đó chỉ là luật mâu thuẫn để tiến hoá, như có kẻ ác mới rõ người thiện, không có đấu tranh thì xã hội không tiến bộ. Bên trên nền trắng đề 4 chữ màu đỏ : “ĐAÏI ĐỒNG CHI PHÁP”. Đó là tôn chỉ của Đạo Cao Đài : Đại Đồng thế giới do luật pháp Thiên điều qui định.
Bên gian trái, trên nền trắng đề 4 chữ : “HẢI NGOAÏI CHI THẾ” để thờ chơn linh các bậc Thánh nhân, hiền triết anh hùng nước ngoài, các chức sắc Chi Thế cũng được thờ ở đây khi qui vị.
Bên gian phải, trên nền trắng đề 4 chữ Hán : “QUỐC NỘI CHI ĐAÏO”,đó là mục đích của Đức Chí Tôn lập nền Quốc giáo. Gian nầy thờ các chiến sĩ vô danh, các anh hùng hào kiệt nước Việt Nam. Các chức sắc vì Đạo cũng được thờ ở đây khi qui vị.
Báo Ân Từ là nơi vẫn trần thiết các lễ từ trước tới nay thuộc quan, hôn, tang, tế hoặc các ngày giỗ chung v…v…
Tóm lại, Đạo có ba chi : Đạo, Pháp và Thế. Đắc thế, đắc pháp, đắc đạo, việc nào cũng được nhơn sanh kính trọng như lời dạy của Đức Phật Mẫu (xem lại chương I, phần Thi văn dạy đạo), nên những nhân vật lừng danh đều phải được nhơn loại đền ơn đáp nghĩa để noi theo cái gương cao cả và hành động tốt lành của các bậc hiền triết, chơn nhơn mà đắc quả tại thế gian.