Quá đường là tên gọi khác của chữ ăn cơm dành cho người xuất gia, nhân vì người xuất gia không ăn sau giờ ngọ, chỉ ăn buổi sáng và giờ ngọ, cho nên gọi là nhị thời Lâm trai. Trai là nói theo nghĩa rộng, chỉ cho thân tâm thanh tịnh, ngăn chặn sự lười biếng của thân tâm, còn nói theo nghĩa hẹp là chỉ cho 8 pháp trai giới, hoặc chỉ cho giới quá ngọ không ăn. Pháp hội cúng dường thức ăn phẩm vật gọi là Trai thực. Ngoài ra dùng thực vật để cúng dường chư Tăng, cũng xưng là Trai. Pháp hội này gọi là Trai Hội. Phật giáo cho rằng buổi sáng là chư Thiên ăn, buổi trưa là Phật ăn, sau giờ ngọ là loài súc sanh ăn, buổi tối là ngạ quỉ ăn, vì thế buổi tối nghe tiếng chén bát khua lên thì trong cổ của loài ngạ quỉ bốc cháy, chẳng những không được ăn uống mà còn tăng thêm sự thống khổ. Vì lòng từ bi đối với loài ngạ quỉ cho nên ban đêm không ăn. Duyên khởi giới không ăn phi thời của Tỳ kheo là do Ngài Ca Lưu Đà Di buổi tối vào trong thôn khất thực, bấy giờ sấm chớp lóe lên, người phụ nữ trong xóm mang thức ăn đi ra, thấy sấm chớp ánh lên qua làn da đen bóng ngời của Ngài, cô ta tưởng là quỉ nên vô cùng sợ hãi và té xuống đất bất tỉnh, vì lúc ấy cô đang mang thai nên nhaân trải qua sự hoaûng sôï mà sanh non, do đó cô mới mắng Ngài Ca Lưu Đà Di: “Người xuất gia theo Phật, thà rằng rọc bụng mà chết đói còn hơn đi xin ăn buổi tối như thế này”. Sau khi đức Phật biết được điều đó, Ngài liền qui định các Tỳ kheo không nên ăn sau giờ ngọ.
Sau khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc do điều kiện xã hội và văn hóa dân tộc bất đồng cho nên việc đi khất thực giống như ở xã hội Ấn Độ không được thuận tiện cho lắm. Vào thời Nam Bắc triều các tự viện thuận theo kinh tế phát triển của xã hội nên các Tăng sẽ không nương theo cách khất thực để duy trì sinh hoạt thường nhật. Vả lại, sau đời Đường, Thiền Tông trong Phật giáo chủ động lưu hành đề xướng thêm ” Một ngày không làm, một ngày không ăn“. Yêu cầu các tự viện tham gia lao động, cho nên ngoài số ít Tăng sĩ còn giữ qui tắc qua giờ ngọ không ăn, còn đại đa số là ngày ăn ba bữa. Thế nhưng chỉ có buổi sáng và trưa là cử hành theo Nghi thức Quá Đường, đây chính là “Nhị Thời Lâm Trai Nghi”.
1. Vào thời quá khứ có một loại Đại bàng kim xí điểu, thân nó to rộng, một khi giương đôi cánh ra thì bay cả vạn dặm, do đó mà số lượng thức ăn của nó cũng nhiều. Nó chỉ ăn thịt loài rồng ở trong biển. Long Vương sợ hãi nên đến xin cầu đức Phật cứu giúp. Đức Phật bèn lấy một miếng ca sa buộc trên sừng của các con rồng, do đó Đại bàng không dám ăn thịt. Thế nhưng Đại bàng đói khát khó chịu nên đến cầu Phật, Phật bèn dạy phương pháp xuất sanh để thí cho Đại bàng.
2. Vào đời quá khứ có một người phụ nữ nhân vì sân hận mà phát ra lời thề ñoäc: “Ta seõ ăn thịt những đứa con nít trong thành Vương Xá”. Về sau đầu thai làm loài Dạ xoa và sanh ra 500 đứa con, mỗi một bữa ăn là baét ăn thòt một đứa con trai và một đứa con gái trong thành Vương Xá. Người dân trong thành Vương Xá cầu cứu với Đức Phật, Phật dùng thần lực bắt cóc giấu đứa con út mà nó thương nhất. Nó bèn đến cầu cứu đức Phật, đức Phật bảo: “Ngươi có đến 500 đứa con, chỉ mất có một đứa mà còn đau khổ hối tiếc như vậy, huống chi kẻ khác chỉ có 2 đứa mà ngươi còn bắt cóc, thì họ đau khổ biết dường nào”. Quỉ nói: “Vậy con và 500 đứa con của con phải sống bằng cách nào?” Phật bèn dạy phương pháp xuất sanh.
3. Vào đời quá khứ ở khoảnh đất trống, có một ác quỉ chuyên môn ăn thịt người. Sau khi tiếp nhận lời giáo hóa của đức Phật bèn không dám ăn thịt người nữa, do đó cũng đến cầu cứu đức Phật. Thế nên đức Phật sai hàng Thanh Văn đệ tử vào mỗi thời ngọ trai phải xuất sanh, để khiến cho chúng no đủ, mãi mãi không còn bị đói khổ nữa.
Cúng dường thanh tịnh pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật.
Viên mãn báo thân Lô Xá Na Phật.
Thiên bá ức hóa thân Thích Ca Mâu Ni Phật.
Đương lai hạ sanh Di Lặc tôn Phật.
Cực lạc thế giới A Di Đà Phật.
Thập phương Tam thế nhất thế Chư Phật.
Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát.
Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát.
Đại Bi Quán Thế âm Bồ tát.
Chư tôn Bồ tát Ma ha tát.
Ma ha Bát nhã Ba la mật.
Tam đức lục vị cúng Phật cập Tăng.
Pháp giới hữu tình phổ đồng cúng dường.
Nhược phạn thực thời.
Đương nguyện chúng sanh.
Thiền duyệt vi thực.
Pháp hỉ sung mãn.
Nếu như ăn cháo sáng thì đem từ câu “Tam đức lục vị” sửa thành:
Xuất thực nếu buổi sáng thì đi ra ngoài thầm niệm bài kệ:
Nếu giờ ngọ trai thì thầm niệm bài kệ chú:
Đại bàng kim xí điểu.
Khoáng dã quỉ thần chúng.
La sát quỉ tử mẫu.
Cam lộ tất sung mãn.
Xuất thực xong trở về chỗ vấn tấn.
Duy Na xướng: Phật chế Tỳ kheo thực tồn ngũ quán, tán tâm tạp thoại, tín thí nan tiêu. Chư sư (đại chúng) văn khánh thinh, các chánh niệm. (đánh 1 tiếng dẫn khánh). Đại chúng niệm: A Di Đà Phật. Sau đó bắt đầu ăn cơm.
Khi đại chúng ăn cơm xong, đọc kết trai, Duy Na xướng đại chúng cùng hòa theo:
Nam mô Tát đa nẫm tam miệu tam bồ đề cu chi nẫm đát điệt tha.
Án chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha.
Sở vị bố thí giả.
Tất hoạch kỳ lợi ích.
Nhược vị lạc cố thí.
Hậu tất đắc an lạc.
Nếu như có trai chủ cúng dường tiền tài thì niệm thêm: Tài pháp nhị thí đẳng vô sai biệt, đàn ba la mật cụ túc viên mãn.
Khi niệm xong vị Tăng trò xướng: Kết trai.
Khi thọ trai không được để bát đũa khua ra tiếng. Lại cũng không được nói chuyện.
Nghi quá đường trong Phật giáo không phải chỉ để ăn cơm, mà là một Phật sự, trước có cúng Phật, Thí thực, sau mới Kết trai. Trải qua một quá trình trang nghiêm và thanh tịnh.