Xem Nhiều 6/2023 #️ Vài Nét Về Chữ Hiếu Trong Đạo Cao Đài Qua Quyển Kinh Thiên Đạo Và Thế Đạo # Top 14 Trend | Iseeacademy.com

Xem Nhiều 6/2023 # Vài Nét Về Chữ Hiếu Trong Đạo Cao Đài Qua Quyển Kinh Thiên Đạo Và Thế Đạo # Top 14 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Vài Nét Về Chữ Hiếu Trong Đạo Cao Đài Qua Quyển Kinh Thiên Đạo Và Thế Đạo mới nhất trên website Iseeacademy.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Thiên Đạo (the Way of Heaven) là con đường tu tập để giải thoát con người khỏi vòng luân hồi, để linh hồn được đến cảnh cực lạc, niết bàn (cũng gọi là cõi thiêng liêng hằng sống, bồng lai, nước Trời, Thiên Quốc, v.v…).

Muốn theo Thiên Đạo thì trước tiên tín đồ phải nhớ làm tròn phần Nhân Đạo (Nhơn Đạo). Đức Chí Tôn dạy: “Hễ Nhơn Đạo thành thì là phù hạp Thiên Đạo.” (1) Thánh ngôn lại dạy: Rằng ở đời thì Nhơn Đạo trọn, Trọn rồi Thiên Đạo mới hoàn toàn.(2)

Trong Nhân Đạo, điều gì là chánh yếu? Đó là chữ Hiếu. Thật vậy, trong dịp kỷ niệm lễ vía Đức Khổng Tử (ông Tổ đạo Nho, tức là Đức Khổng Thánh Tiên Sư), Ngài giáng đàn dạy như sau: Hiếu phần chánh của Nhân Đạo vậy, Hiếu phụ thì mới thấy hiếu nhi, Hiếu tâm ngày tháng nhớ ghi, Hiếu thường thăm viếng vui thì song thân.(3)

Cũng vậy, Đức Ni Sư Diệu Lộc dạy: “Từ cõi Thiên Đình hay niết bàn, bồng lai, tiên cảnh đến cửa đạo đức, không một vì Phật Tiên Thánh Thần hay nhà lãnh giáo [lãnh đạo tôn giáo] nào thiếu trung, hiếu, tín, nghĩa, nhân, lễ, liêm, sỉ mà nên.” (4)

Nhân Đạo (the Way of Man) là đạo làm người, là con đường tu tập để hoàn thiện hóa con người, bao gồm nhiều nội dung quy định các mối quan hệ giữa người với người.

Chữ Nho gọi các mối quan hệ giữa người với người (human relations) là Luân 倫. Khi nhấn mạnh đến phương diện đạo đức của các mối quan hệ người và người thì gọi là Nhân Luân (human ethical relations). Khi nhấn mạnh đến ý nghĩa nguyên tắc sống giữa người với người thì gọi là Luân Lý (ethical principles). Chữ Lý nghĩa là nguyên tắc, quy luật (principle).

Nho Giáo chia các mối quan hệ đạo đức của con người sống trong xã hội thành năm nhóm, gọi chung là Ngũ Luân. Theo Nho Giáo, năm mối quan hệ đạo đức này là chính yếu, chủ yếu, cốt yếu (cardinal) của đời người. Hiểu như thế nên phương Tây thường dịch Ngũ Luân là the Five Cardinal Relationships.

Ngũ Luân gồm có: Quân thần, phụ tử, phu thê, huynh đệ, bằng hữu. Điều này có chép trong sách Trung Dung (chương 20, đoạn 2).(5) Giáo lý đạo Nho là một bộ phận nòng cốt của giáo lý Cao Đài. Nên phần Nhân Đạo của Cao Đài cũng dạy tín đồ phải làm tròn những bổn phận quy định trong Ngũ Luân. Chữ Hiếu trong Ngũ Luân thuộc về mối quan hệ phụ tử (hiểu theo mặt chữ là cha con, ngày nay nên hiểu khái quát là ông bà, cha mẹ và con cái).

*  *  *

Các nhà đạo đức học phương Tây hay bảo rằng con người có xu hướng phạm lỗi (Man is error-prone). Cũng thế, ngày 21-10-1925 (04-9 Ất Sửu), Đức Quan Âm Bồ Tát dạy: “Người ở thế mấy ai khỏi lỗi…”

Có lỗi thì phải biết tỉnh ngộ mà sửa chữa. Đức Quan Âm Bồ Tát dạy:

Người ở thế mấy ai khỏi lỗi, Biết lạc lầm sám hối tội căn,(6) Tu tâm sửa tánh ăn năn, Ba Giềng (7) nắm chặt, Năm Hằng (8) chớ lơi.(9)

Do đó, để giúp con người làm tròn phần Nhân Đạo của mình, tức là đắp nền tảng cho phần Thiên Đạo, trong quyển Kinh Thiên Đạo Và Thế Đạo của Cao Đài, bài Kinh Sám Hối (dài 444 câu song thất lục bát) được đặt trong phần Kinh Thiên Đạo.

Trong Kinh Sám Hối, ngày 22-4-1925 (30-3 Ất Sửu), Ðức Thái Thượng Lão Quân dạy về chữ Hiếu như sau: Làm con phải trau giồi hiếu đạo, Trước là lo trả thảo (10) mẹ cha, Lòng thành thương tưởng ông bà, Nước nguồn cây cội mới là tu mi.(11) (12)

Cũng trong Kinh Sám Hối, để răn những kẻ bất hiếu, ngày 25-8-1925 (06 rạng 07-7 Ất Sửu), Ðức Tề Thiên Đại Thánh dạy:

Con bất hiếu, xay, cưa, đốt, giã, Mổ bụng ra, phanh rã tim gan, Chuyển thân trở lại trần gian, Sanh làm trâu chó, đội mang lông sừng.(13)

Ngoài Kinh Sám Hối, trong phần Kinh Thiên Đạo có những bài kinh nhật tụng, cúng vào bốn giờ Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu trong ngày (gọi là kinh cúng tứ thời). Trong đó, ở bài kinh xưng tán Nho Giáo có câu: “Khai nhơn tâm tất bổn ư đốc thân chi hiếu.”

Câu kinh này ngụ ý nhắc nhở tín đồ bốn lần mỗi ngày rằng việc giáo hóa cho con người mở mang tâm trí tất yếu đặt trên căn bản là dạy kẻ làm con phải hết lòng hiếu kính cha mẹ (đốc thân chi hiếu).(14)

*  *  *

Trong phần Kinh Thế Đạo, gồm hai mươi bài, thì chữ Hiếu được dạy trong bài 16: Kinh Tụng Cha Mẹ Ðã Quy Liễu.

Bài kinh này dài ba mươi hai câu. Mở đầu bài kinh (câu 1-4) liền nhắc đến công ơn cha mẹ nhọc nhằn, khổ cực nuôi nấng con cái. Cha mẹ mất đi là một mất mát lớn của kẻ làm con vì không còn được báo hiếu.

Ơn cúc dục cù lao (15) mang nặng, Lỡ thân côi mưa nắng khôn ngừa, Âm dương cách bóng sớm trưa, Thon von phận bạc không vừa hiếu thân.(16)

Nhà Nho cho rằng hiếu là duy trì được nòi giống huyết tộc của tổ tiên truyền lại. Ngoài ra, con cháu phải biết sống ở đời đúng theo đạo nghĩa để giữ thơm danh tiếng của gia tộc, tức là không làm những điều xấu xa, tội lỗi để gia tộc khỏi phải hổ thẹn, nhục nhã.

Bài Kinh Tụng Cha Mẹ Ðã Quy Liễu (câu 21-22) phản ánh luân lý nhà Nho về chữ hiếu như sau: Nối hương lửa nhơn luân đạo trọng, Con gìn câu chết sống trọn nghì.(17)

Theo Cao Đài, cách báo hiếu đúng nhất là con cháu nên biết tu hành, biết lập công bồi đức để hồi hướng về tổ tiên, cha mẹ. Vì thế giáo lý Cao Đài dạy rằng tu là cứu cửu huyền thất tổ, tu là giúp cho linh hồn các vị đã lìa trần được siêu thăng và lập được ngôi vị ở cõi trời.

Bài Kinh Tụng Cha Mẹ Ðã Quy Liễu vì thế có bốn câu (câu 25-28) vừa để nhắc nhở chơn hồn cha (hay mẹ) hãy tu học ở cõi vô hình, vừa để con cái hứa nguyện với người đã khuất là phận làm con cũng ráng lo tu ngõ hầu báo hiếu để cha (hay mẹ) phục hồi được ngôi vị cũ ở cõi trời.

Thí dụ, người mất cha sẽ khấn nguyện:

Xin phụ thân (18) định thần định tánh, Noi khuôn linh nẻo Thánh đưa chơn [chân], Thong dong cõi thọ nương hồn, Chờ con lập đức giúp huờn [hoàn] ngôi xưa.

Bài kinh nói trên do Đức Ðoàn Thị Ðiểm giáng cơ ban cho. Tiền kiếp Ngài là danh Nho Việt Nam, bút danh Hồng Hà Nữ Sĩ (1705-1748). Quả vị của Ngài trong Tam Kỳ Phổ Độ là Giác Minh Thánh Đức.(19)

*  *  *

Phú Nhuận, 11-11-2010.

(1) Tòa Thánh Tây Ninh, Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Quyển 1: Đàn ngày 01-3-1927. (2)Tòa Thánh Tây Ninh, Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Quyển 1: Thi Văn Dạy Đạo, bài 92. (3) Hườn Cung Đàn (Tam Giáo Điện Minh Tân, quận 4), đàn đêm 30 rạng sáng 01-9 Nhâm Dần (28-9-1962). (4) Đàn cơ tại Chơn Lý Đàn (Vạn Quốc Tự, quận 3), ngày 01-5 Kỷ Dậu (15-6-1969). (5) Thay vì huynh đệ, trong sách Trung Dung viết côn đệ. Chữ côn có nghĩa là anh (huynh). (6) Tội căn: Cội rễ gây ra lỗi lầm, tội lỗi (the root of sins). (7) Ba Giềng: Tam Cang (Cương), gồm ba mối quan hệ xã hội: 1. Quân thần cang là quan hệ chánh phủ và người dân (dân trung thành với Tổ Quốc, chánh phủ chăm lo cho dân); 2. Phụ tử cang là quan hệ cha mẹ và con cái (cha mẹ thương yêu con, con hiếu thảo với cha mẹ); 3. Phu thê cang là quan hệ vợ chồng (chung thủy). (8) Năm Hằng: Ngũ Thường, gồm năm đức tính mà con người phải luôn luôn có: 1. Nhân: Lòng thương người, thương vật (tương ứng giới cấm Nhứt bất sát sanh); 2. Nghĩa: Cách sống hợp lẽ phải, đạo đức (tương ứng giới cấm Nhị bất du đạo); 3. Lễ: Sự trang nghiêm, khuôn phép, đứng đắn trong tư tưởng và hành vi. Thí dụ: ăn nói tục tằn; xem những hình ảnh, sách vở thô tục; ham muốn sắc dục ngoài tình vợ chồng… đều là trái lễ (tương ứng giới cấm Tam bất tà dâm); 4. Trí: Sáng suốt, biết phân biệt phải trái nên hư, biết lúc nào tiến lúc nào lui (tương ứng giới cấm Tứ bất tửu nhục, vì say sưa làm tâm trí mê muội); 5. Tín: Đối với bản thân thì tự tin ở mình; đối xử với người khác thì không dối trá, lừa gạt; đối với các Đấng thiêng liêng thì làm đúng những gì đã nguyện hứa (tương ứng giới cấm Ngũ bất vọng ngữ). (9) Tòa Thánh Tây Ninh, Kinh Thiên Đạo Và Thế Đạo: bài Kinh Sám Hối, câu 425-428. (10) Trả thảo: Trả hiếu, báo hiếu (to fulfil one’s filial duty). (11) Tu mi: Đàn ông, kẻ mày râu (tu: râu; mi: lông mày). Phụ nữ không có râu lại thường cạo hoặc nhổ sạch lông mày để vẽ cho đẹp; do đó tu mi chỉ đàn ông. (12) Kinh Sám Hối, câu 49-52. (13) Kinh Sám Hối, câu 329-332. (14) Thân nghĩa là cha, mẹ. Gọi cha là phụ thân, mẹ là mẫu thân, cả cha và mẹ là song thân. (15 ) Cúc dục: Nuôi nấng. Cù lao: Vất vả, khổ nhọc. (16) Thân: Cha, mẹ. Hiếu thân: Báo hiếu cha, mẹ. (17) Trọn nghì: Trọn nghĩa. (18) Người mất mẹ thì đọc: Xin mẫu thân… Nếu mất cả cha và mẹ thì đọc: Xin song thân… (19) Hội Thánh Tam Quan, Kinh Tam Thừa Chơn Giáo. Quyển 1 (phẩm Tiểu Thừa): bài Tam Tùng Tứ Đức, đàn cơ ngày 19-8 Canh Tý (09-10-1960).

Giới Thiệu Khái Quát Về Đạo Cao Đài

Phong trào Thông linh học của phương Tây phát triển nhanh tại Nam bộ, tạo thành phong trào cầu cơ, chấp bút gọi tắt là “cơ bút”. Trong các đàn cơ này, có hai nhóm chính hình thành đạo Cao đài. Nhóm thứ nhất do ông Ngô Minh Chiêu cầu cơ tại các đền, chùa thuộc các nhóm Ngũ chi Minh đạo. Nhóm thứ hai gồm ba ông: Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang, Phạm Công Tắc tổ chức xây bàn cầu cơ nhằm mục đích giải trí.

Đến ngày 12/2/1926, trong một bài cơ Đức Thượng đế đã phán dạy hai nhóm cơ bút thống nhất hình thành đạo Cao đài. Ông Ngô Minh Chiêu được Thiên phong phẩm vị Giáo tông đầu tiên của đạo Cao đài.

Ngày 7/10/1926, 28 người đại diện cho 247 tín đồ đã thống nhất ký tên vào Tờ khai đạo gửi chính quyền Pháp. Giữa tháng 11/1926, những chức sắc Thiên phong đầu tiên của đạo Cao đài tổ chức lễ khai đạo tại chùa Gò Kén, Tây Ninh, chính thức cho ra mắt Đại đạo Tam kỳ Phổ độ, gọi tắt là đạo Cao đài.

Tôn chỉ của đạo Cao đài là “Tam giáo quy nguyên, Ng̣ũ chi hiệp nhất”, lấy sự thương yêu làm nền tảng, lấy nhân nghĩa làm phương châm hành đạo, lấy việc phụng sự chúng sinh làm hành động, lấy sự cứu rỗi các chơn linh làm cứu cánh, phấn đấu xây dựng một xã hội đạo đức, an lạc bằng tinh thần thương yêu đồng đạo. Giáo lý của đạo Cao đài đề cao tính thiêng liêng, sự huyền diệu của cơ bút. Luật lệ của đạo Cao đài thực hiện theo Tân luật, Pháp Chánh truyền. Lễ nghi của đạo Cao đài khá cầu kì thể hiện tinh thần Tam giáo đồng nguyên. Đạo Cao đài thờ Thiên nhãn, có nghĩa là “mắt trời”, biểu tượng Đức Chí Tôn của đạo Cao đài. Cơ sở thờ tự có Toà thánh ở Trung ương giáo hội và thánh thất (thánh tịnh, điện thờ Phật Mẫu) ở Họ đạo cơ sở.

Mô hình tổ chức của đạo Cao đài theo 3 đài: Bát Quát đài là đài vô vi thờ Đức Chí Tôn (Thiên nhãn) và Phật, Tiên, Thánh, Thần; Hiệp Thiên đài là cơ quan bảo pháp có hai chức năng thông công giữa Bát Quát đài và Cửu Trùng đài và bảo vệ pháp luật Đạo, đồng thời giám sát các hoạt động của cơ quan Cửu Trùng đài, đứng đầu Hiệp Thiên đài là phẩm Hộ pháp; Cửu Trùng đài là cơ quan hành pháp, tổ chức hữu hình của đạo Cao đài, gồm 09 Viện và 9 phẩm, đứng đầu Cửu Trùng đài là phẩm Giáo tông.

Sau ngày khai đạo, những chức sắc lãnh đạo giáo hội Cao đài tiến hành xây dựng Toà thánh, phát triển các thánh thất, điện thờ, xây dựng giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức Giáo hội. Trong 2 năm 1926 – 1927, thông qua cơ bút đạo Cao đài đã tập trung xây dựng xong hai văn bản quan trọng qui định luật lệ, lễ nghi và tổ chức Giáo hội là Pháp Chánh truyền và Tân luật. Vì vậy, đến năm 1930 hoạt động tại Toà thánh dần dần đ­ược củng cố và đi vào nề nếp, những chức sắc thư­ờng trực đã thực hiện theo đúng chức năng nhiệm vụ, các cơ sở đạo phát triển, tổ chức Giáo hội hình thành từ Trung ương đến cơ sở theo 5 cấp hành chính đạo.

Từ 1931 đến 1934, mâu thuẫn giữa một số chức sắc Hiệp Thiên đài và Cửu Trùng đài ngày càng nặng nề, tình hình nội bộ Giáo hội mất đoàn kết ngày càng tăng, một số chức sắc cao cấp bất đồng với Toà thánh đã tự hoạt động theo ý riêng, tiến hành lập nhiều đàn cơ để lôi kéo tín đồ. Vì vậy, nội bộ chức sắc xuất hiện t­ư tư­ởng ly khai khỏi Toà thánh như­ các ông Nguyễn Văn Ca, Nguyễn Hữu Chính, Trần Đạo Quang, Nguyễn Ngọc T­ương, Lê Bá Trang, các vị chức sắc rời Toà thánh Tây Ninh về các địa phư­ơng lập ra các chi phái Cao đài mới như: Cao đài Ban Chỉnh đạo, Cao đài Tiên Thiên, Cao đài Chơn lý, Cao đài Minh Chơn đạo, Cao đài Bạch y…

Giai đoạn từ 1935 đến 1975, đạo Cao đài phát triển mạnh mẽ nhất nhưng cũng xảy ra tình trạng phân chia thành nhiều chi phái, đã có lúc lên đến hơn 30 phái Cao đài khác nhau. Số lượng tín đồ đạo Cao đài cũng phát triển nhanh chóng đến hơn 2 triệu người, tập trung chủ yếu ở Nam bộ và một vài tỉnh ở miền Trung, miền Bắc.

Giai đoạn từ năm 1975 đến nay: sau năm 1975, các phái Cao đài không hoạt động theo mô hình tổ chức cũ. Các Hội thánh Cao đài xây dựng tổ chức hành chính đạo theo hai cấp: cấp Trung ương là Hội thánh, cấp cơ sở là Họ đạo. Từ năm 1995 đến năm 2000, lần lượt 09 Hội thánh Cao đài có đông chức sắc, tín đồ tổ chức Đại hội thông qua Hiến chương, chương trình hành đạo, xây dựng tổ chức giáo hội 2 cấp, hoạt động theo 3 Hội: Thượng hội, Hội thánh, Hội Nhơn sanh và xác định đường hướng hành đạo “Nước vinh, Đạo sáng”.

Hiện nay, đạo Cao đài có 09 Hội thánh có tổ chức giáo hội gồm: Cao đài Tây Ninh, Cao đài Ban Chỉnh đạo, Cao đài Tiên Thiên, Cao đài Minh Chơn đạo, Truyền giáo Cao đài, Cao đài Cầu Kho Tam Quan, Cao đài Chơn lý, Cao đài Chiếu Minh Long Châu, Cao đài Bạch y.

Ngoài ra, đạo Cao đài còn có tổ chức Pháp môn Cao đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi là pháp môn tu hành của đạo Cao đài theo “Nội giáo tâm truyền” không có chức sắc, không lập giáo hội, chỉ chuyên tu tâm, luyện tánh theo truyền dạy của ông Ngô Minh Chiêu (được công nhận năm 2010). Giáo hội Cao đài Việt Nam (Bình Đức) cũng là một phái Cao đài có tổ chức giáo hội 02 cấp nhưng mới được cấp đăng ký hoạt động tôn giáo năm 2009.

Bên cạnh các tổ chức giáo hội, đạo Cao đài còn có trên 20 tổ chức Cao đài hoạt động độc lập không phụ thuộc vào các tổ chức Hội thánh nêu trên như: Cao đài Thượng đế, Cao Thượng Bửu Toà, Nam Thành Thánh Thất, Cơ quan Phổ thông giáo lý Đại đạo, Liên Hoa Cửu Cung Thiên đạo học đường, Thánh tịnh Tân Minh Quang, Thánh tịnh Huỳnh Quang Sắc, Thánh tịnh Thiên Trước, Thánh thất Bàu Sen.

Theo thống kê năm 2009 của các tổ chức Cao đài, đến nay đạo Cao đài có trên 1 vạn chức sắc, gần 3 vạn chức việc, khoảng 2,4 triệu tín đồ, với 958 tổ chức Họ đạo cơ sở được công nhận ở 35/38 tỉnh, thành phố có đạo Cao đài, thành lập 65 Ban Đại diện, 1.290 cơ sở thờ tự (hàng năm có khoảng 4 ngàn tín đồ mới nhập môn vào đạo Cao đài).

Trong hai cuộc kháng chiến cứu nước, đông đảo chức sắc, tín đồ đạo Cao đài đã tích cực tham gia đóng góp sức người, sức của vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, đồng bào đạo Cao đài đang cùng toàn dân tham gia vào công cuộc đổi mới, góp phần xây dựng đất nước./.

Phong Tục Đám Tang Đạo Cao Đài

Lời đầu, Trại Hòm Đức Thịnh xin chia sẻ đôi điều thông tin cơ bản về Đạo Cao Đài hiện nay tại Việt Nam.

Tổng Quan Về Đạo Cao Đài

Đạo Cao Đài hay còn được gọi là Cao Đài Giáo, được thành lập vào khoảng năm 1926 tại miền Nam Việt Nam.

Và để tỏ lòng tôn kính, một số Tín Đồ thường gọi tôn giáo của mình là Đạo Trời.

Đạo Cao Đài là một tôn giáo mới, dung hòa nhiều yếu tố từ các tôn giáo lớn gồm Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo, Hồi giáo, Cơ Đốc giáo, Thần đạo và cả 1 số tôn giáo đa thần thời cổ đại, thể hiện qua Ngũ Chi Đại Đạo.

Giáo Lý Cơ Bản của Đạo Cao Đài gồm: Tam Kỳ Phổ Độ, Tam Giáo Quy Nguyên và Thiên Nhãn.

Một tộc Đạo Cao Đài có thể thờ tự là “Thánh Thất” và “Điện Thờ Phật Mẫu” và đều có chương trình truyền bá giáo lý.

Nội dung bài chia sẻ khó tránh được sự sai xót, kính mong quý độc giả, quý cao niên, quý học giả chỉ giáo thêm.

Nghi Thức Tang Lễ Đạo Cao Đài

Cầu Hồn Khi Hấp Hối

Là tụng kinh cầu nguyện Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng cho linh hồn của người đang hấp hối được nhẹ nhàng xuất ra khỏi thể xác & được cứu giúp siêu thăng về Cõi Thiên Liêng Hằng Sống.

Cầu Hồn Khi Đã Chết Rồi

Ban Trị Sự hành lễ y như hành lễ Cầu Hồn Khi Hấp Hối.

Rồi sau đó, tang quyến hoặc Ban Trị Sự sẽ đến Đền Thánh (nếu người quy vị là Chức Sắc) hay Thánh Thất để báo tử.

Đến đây sẽ rung chuông báo tử.

Nếu là Chức Sắc thì tùy vào Phẩm Cấp để rung chuông và đánh trống tại Đền Thánh

Phẩm Giáo Hữu và tương đương: rung 2 hồi chuông và đánh 2 hồi trống

Phẩm Lễ Sanh và tương đương: rung 1 hồi chuông và đánh 1 hồi trống

Nếu là Chức việc Ban Trị Sự và Đạo Hữu và các phẩm tương đương thì không đánh trống mà chỉ rung chuông

Thượng Sớ Tân Cố

Là dâng sớ lên Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng báo cáo 1 tín đồ Cao Đài mới vừa Quy Liễu, cầu xin Đức Chí Tôn, Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát, và các Đấng thiêng liêng cứu độ vong hồn vị tín đồ vừa mới Quy Liễu được siêu thăng tịnh độ.

Thượng Sớ Tân Cố, có thể thực hiện tại Đền Thánh, tại Thánh Thất hoặc tại Thiên Bàn nơi tư gia người chết.

Người chết là Phẩm Chánh Trị Sự xuống Đạo Hữu hoặc tương đương thì người chứng đàn cầu nguyện là Chánh Trị Sự hương đạo sở tại.

Người Chết là Phẩm Lễ Sanh hoặc tương đương trở lên thì người chứng đàn cầu nguyện là Đầu Tộc, Đầu Phận Đạo, Khâm Châu Đạo hoặc Khâm Thành Thánh Địa.

Còn những việc khác thì Ban Trị Sự hành lễ theo nghi thức quy định.

Tẩn Liệm (Nhập Mạch)

Sau khi dâng sớ Tân Cố tại Đền Thánh, Thánh Thất hay tại gia đường thì chuẩn bị Lễ Tẩn Liệm.

Người thân dùng nước thơm ( nước nấu với các loại lá cây có mùi thơm) lau rửa vệ sinh sạch sẽ cho người chết, thay đồ cho người chết và mặc đạo phục theo Phẩm Vị, đắp 1 miếng vải trắng hình tam giác trên mặt người chết, bề đứng 33cm và góc nhọn để trên.

Tất cả người thân quỳ lạy Đức Chí Tôn và cầu nguyện, sau đó đến chỗ người chết nằm quỳ lạy người chết 1 lần.

Vị chứng đàn và 2 vị hầu lễ đến trước Thiên Bàn cầu nguyện Thầy.

Đốt 2 cây nến cho 2 vị hầu lễ cầm, vị chứng đàn bắt ấn Tý đến đứng trước đầu người chết, ra lệnh cho đồng nhi bắt đầu tụng kinh Tẩn Liệm, tụng 3 lần, khi niệm xong câu chú của Thầy 3 lần, vị chứng đàn và 2 vị hầu lễ trở lại trước Thiên Bàn xá Chí Tôn, rồi xả ấn Tý và tắt 2 cây nến.

Người thân lạy người chết 1 lần nữa, rồi đội Tẩn Liệm bắt đầu tiến hành Liệm Xác rồi đưa vào hòm.

Tấm Phủ Quan

Sau khi hòm được đặt đúng vị trí rồi thì dùng tấm Phủ Quan đắp lên hòm, tiếp sau là đặt giá đèn lên trên.

Tấm Phủ Quan (có 5 màu: vàng, xanh, đỏ, trắng, đen) là tấm vải để phủ lên hòm, là hình vuông với mỗi cạnh là 1m2, 4 mặt đều may ren, chính giữa thêu 1 Thiên Nhãn lớn với 12 ánh hào quang.

Trước khi đắp lên hòm cho người chết, người chứng lễ đem Tấm Phủ Quan đặt trước Thiên Bàn cầu nguyện đức Chí Tôn ban ơn cho người chết.

Màu sắc của Tấm Phủ Quan để phân biệt người chết là Nam hay Nữ, hoặc là phân biệt cơ quan, Chức Sắc Cửu Trùng Đài:

Chức Sắc và Chức Việc phái nữ Cửu Trùng Đài

Chức Sắc Hiệp Thiên Đài và Ban Thế Đạo

Chức Sắc Cửu Trùng Đài phái Thái

Chức Sắc Phước Thiện từ Phẩm Hiền Nhơn trở lên

Chức Sắc Cửu Trùng Đài phái Thượng

Chức Sắc Phước Thiện nam nữ đeo dây sắc lệnh màu xanh: Chí Thiện, Đạo Nhơn, Chơn Nhơn

Chức Sắc Cửu Trùng Đài phái Ngọc, Ban Trị Sự nam phái và các Phẩm tương đương,

Chức Sắc Ban Kiến Trúc, Bộ Nhạc

Chức Sắc Phước Thiện nam nữ đeo dây sắc lệnh màu đỏ: Thính Thiện, Hành Thiện, Giáo Thiện, Bảo Thể, Đầu phòng văn.

Đạo hữu nam nữ, đạo sở, minh đức, tân dân (Phước Thiện), thư ký, trật tự viên, v.v…

Ý nghĩa của Tấm Phủ Quan có ý nghĩa giống với việc thờ Thiên Nhãn tại Khách Đình

Tấm Phủ Quan màu gì thì khi hòm đưa lên Thuyền Bát Nhã thì tấm Diềm Treo cũng màu đó.

Đốt Đèn Trên & Dưới Hòm

Trên Giá Đèn đặt trên nắp Hòm, đốt đủ 9 cây nến, không dư không thiếu và không được để tắt đi.

Phía dưới hòm đốt 1 ngọn đèn để khử trược lưu thanh.

Lập Bàn Vong – Khai Vong – Linh Vị

Lập Bàn Vong

Đặt 1 cái bàn trước Hòm làm Bàn Vong: 1 cặp chân đèn, 1 lư hương, 1 dĩa trái cây, 1 bình hoa, 1 chung rượu, 1 chung trà, 1 tấm Linh Vị (Bài Vị), 1 cây đèn, 1 tấm di ảnh có mặc đạo phục, 1 cây phướn Thượng Sanh đặt bên trái phía trong nhà nhìn ra cửa.

Nếu người chết ở Phẩm Lễ Sanh hoặc tương đương thì có thêm cây lộng.

Trước Bàn Vong dán tấm phủ màu trắng ghi chữ ví dụ như: Sanh Ký Tử Qui, Sanh Tiền Giác Ngộ Tam Kỳ Đạo, v.v…

Bên cạnh đó dán 1 miếng giấy nhỏ ghi: xin cầu nguyện cho: “Phẩm Tước, họ tên người chết, tuổi” để cho người viếng đám cầu nguyện.

Nơi Thiên Bàn cũng dán vậy: Nam dán dưới bình hoa hoặc các chuông, Nữ dán dưới dĩa trái cây hoặc cái mõ, để ban đạo cầu nguyện

Chuẩn bị khay hình vuông để đặt: 1. Linh Vị, 2. Dĩa trái cây nhỏ, 3. Bình hoa nhỏ, 4. Đèn Vọng, 5. Lư Hương nhỏ.

Khi hành lễ luôn đốt 3 cây nhang cắm vào. Khay Vong tượng trưng cho vị trí của Vong Linh.

Linh Vị (Bài Vị)

Là 1 miếng giấy nhỏ ghi: Họ tên người chết, Phẩm vị, tuổi, ngày tháng năm sinh, nơi sinh, ngày tháng năm chết, nơi chết, ngày nhập môn cầu Đạo.

Cáo Từ Tổ – Thành Phục – Tang Phục

Chuẩn bị 2 mâm chay: 1 cúng Cửu Huyền Thất Tổ, 1 cúng Thần Hoàng Bổn Cảnh, phải có đủ hoa, rượu, nước trà.

Đặt đồ tang ngay ngắn trong 1 cái mâm (Mâm Tang Phục) để trước bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ. Trên Mâm Tang Phục đốt 2 cây nến.

Trước tiên, Chức Việc và người nhà đến trước Thiên Bàn cúng Đức Chí Tôn, không đọc kinh, chỉ cầu nguyện cho người nhà Thọ Tang.

Tiếp sau, đến bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ thiết lễ Cáo Từ Tổ

Sau cuối đến bàn vong làm lễ Thành Phục phát tang.

Thời Gian Để Tang Đạo Cao Đài

Để tang 81 ngày: tới Chung cửu thì mãn tang.

Để tang 281 ngày: tới Tiểu tường thì mãn tang.

Để tang 581 ngày: tới Đại tường thì mãn tang.

Cúng Vong Triêu – Tịch

Nghi Tế Điện có 6 lễ sĩ hiến lễ, mặc áo lễ màu xanh đậm.

Việc Tế Điện và 4 bái thài hiến lễ có sự quy định khác nhau tùy Phẩm Cấp của người chết.

Lễ Cầu Siêu thực hiện trước Bàn Vong.

Tất cả người thân quỳ trước Bàn Vong.

Chức Sắc, Chức Việc, chư đồng đạo dự Lễ Cầu Siêu đứng 2 bên Bàn Vong, phân ra 2 bên nam nữ, tay bắt ấn Tý.

Sau Lễ Cầu Siêu là chư đồng đạo vào bái vong. Khi bái vong thì tay bắt ấn Tý, cầu nguyện cho vong linh rồi quỳ lại 3 lạy. Chức Sắc lớn Phẩm hơn người chết thì không lạy vong mà chỉ niệm hương cầu nguyện trước Bàn Vong.

Buổi tối tổ chức hòa nhạc trước Bàn Vong và luân phiên tụng kinh Di Lạc trước Thiên Bàn.

Lễ Chèo Hầu Tại Khách Đình

Phẩm Lễ Sanh chết làm lễ tang tại Khách Đình có chèo hầu vào buổi tối.

Các Phẩm Chánh Trí Sự trở xuống không có chèo hầu.

Việc Chèo Hầu được thực hiện trước hòm người chết ở Phẩm Vị Lễ Sanh làm tăng thêm phần Long Trọng của tang lễ của 1 vị Chức Sắc của Đạo.

Đối với Chức Sắc trên Phẩm Lễ Sanh,tức Giáo Hữu trở lên còn có Chèo Đưa, nghi lễ Long Trọng Hơn nữa.

Hành Pháp Độ Hồn: Phép Xác – Đoạn Căn – Độ Thăng

1 vị Chức Sắc Phẩm Giáo Hữu đến thực hiện Phép Xác – Đoạn Căn – Độ Thăng cho chơn hồn người chết, do gia đình thỉnh cầu, có sắp đặt trước.

Là tẩy rửa chơn thần người chết cho hết ô trược để nhẹ nhàng bay đến cõi linh thiêng

Là cắt đứt 7 dây oan nghiệp, không còn ràng buộc chơn thân người chết

Là đưa chơn hồn người chết bay lên Cửu Trùng Thiên (9 tầng trời)

Chi tiết về các nghi thức này sẽ được vị Chức Sắc Phẩm Giáo Hữu trở lên hướng dẫn.

Lưu Ý: Nếu người chết là Chức Sắc Phẩm Giáo Hữu trở lên thì việc hành pháp độ thăng được thực hiện tại Tòa Thánh.

Đối với trường hợp ở xa không có Chức Sắc hành pháp: cả Chức việc Ban Trị Sự cùng với gia đình tang quyến, bưng Khay Vong đến cúng trước Thiên Bàn, cầu nguyện Đấng Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng ban ân và tha thứ tội tình cho người chết rồi trở lại bàn vong tụng kinh cầu siêu nối tiếp kinh khi đã chết rồi. tụng 3 hiệp rồi niệm chú Thầy 3 lần, sau đó động quan đưa Linh Cữu ra Thuyền Bát Nhã.

Lễ Động Quan – Khiển Điện

Có nhạc và lễ. Đầu tiên là thực hiện Lễ Khiển Điện, Lễ Xướng:

Lễ An Táng Tại Nghĩa Trang

Tang chủ bưng Khay Vong đến trước Thiên Bàn xá 3 xá rồi đi theo Phướn Thượng Sanh, tiếp theo sau là Linh Cữu. Khi đưa ra tới đường lộ thì phải trật tự.

– Bảng Đại Đạo

– Phướn Thượng Sanh

– Đồng nhi tụng kinh đưa Linh Cữu, có đàn và tụng cho đến khi đến Huyệt mộ

– Bàn hương án có 1 lọng và 2 lễ sĩ theo hầu

– Vãng lụy và tràng hoa

– Thuyền Bát Nhã

– Gia đình tang quyến

– Chức Sắc – Chức Việc – Đạo Hữu đưa tang

– Phướn Thượng Sanh

– Trật tự đưa đám giống như trên nhưng không có Bàn hương án và Dàn Nam

Điếu Văn Cảm Tạ – Hạ Huyệt

Khi đến nghĩa trang, đặt hòm kê trên huyệt.

Vị chủ lễ đến trước Linh Cữu, trải chiếu và bài mâm cúng Thần Hoàng Bổn Cảnh.

Thân bằng quyến thuộc đọc điếu văn và lời cảm tạ. (Nếu có)

Gia đình tang quyến quỳ trước đầu Huyệt, tay bắt ấn Tý, đồng nhi bắt đầu tụng kinh Hạ Huyệt – 3 lần , tiếp sau đó đọc Vãng Sanh thần chú 3 lần rồi lại niệm câu chú của Thầy 3 lần.

Vị chủ lễ đúng ngang hòm, xá 3 xá rồi thu hồi Tấm Phủ Quan giao cho đội đạo tỳ.

Đội đạo tỳ bắt đầu tiến hành hạ hòm xuống huyệt.

*** Chú Ý: Đạo Cao Đài không mở cửa mả, không đem Linh Vị ra huyệt mộ để cúng, không rước vong về nhà thờ, không đốt giấy tiền vàng mã.

Riêng Đạo Cao Đài còn một số nghi thức sau đám tang như sau:

Tuần cửu – Tiểu tường – Đại tường – Xả Tang

Nghi Tiết Tang Lễ Hàng Thiên Thần

Nghi Tiết Tang Lễ Hàng Nhơn & Địa Thần

Ngoài ra, còn những trường hợp khác như sau:

Tang Lễ Của Đạo Hữu Giữ Lục Trai

Tang Lễ Bạt Tiến

Trường hợp khác: Tự tử – Sét đánh – Nhi đồng

Sẽ không thể tránh khỏi thiếu xót vì mỗi nơi sẽ có đôi chút khác biệt. Thành mong quý độc giả góp ý thêm để cải thiện chỉnh sửa cho hợp lý với Phong Tục và Điều Răn của Đạo Cao Đài.

Tham Khảo Thêm: Báo Giá Dịch Vụ Phục Vụ Tang Lễ Trọn Gói – Xem Tại Đây

Tham Khảo Thêm: Phong Tục Đám Tang Đạo Phật – Xem Tại Đây

Tham khảo Thêm: Phong Tục Đám Tang Đạo Công Giáo – Xem Tại Đây

Pháp Môn Cúng Tứ Thời Của Đạo Cao Đài

Bài viết được cập nhật lần cuối vào ngày 11/04/2011

Cúng tứ thời

Pháp môn cúng tứ thời

Do chúng sanh căn trí vô lượng nên có vô lượng pháp môn. Pháp môn là phương tiện để con người tu học và thực hành nơi thế gian nhằm đạt đến một cứu cánh nào đó. Pháp môn Cao Đài nhằm giúp người tín hữu tu tiến trong trường tiến hóa nhằm đặt đến mục đích của Đại Đạo là thế đạo đại đồng và thiên đạo giải thoát. Pháp môn căn bản của đạo cao Đài là pháp môn Tam công bao gồm Công quả, Công trình và Công phu được thực hiện dưới nhiều hình thức, trong đó, Cúng Tứ thời cũng được xem là một trong những hình thức thực hiện pháp môn Tam công.

Điều thứ hai mươi của Tân Luật có qui định Chức sắc giữ Thánh thất mỗi ngày phải làm tiểu lễ bốn lần theo tứ thời là Tý (từ 11 giờ khuya đến 1 giờ sáng), Mẹo (từ 5 giờ đến 7 giờ sáng), Ngọ (từ 11giờ đến 12 giờ trưa), và Dậu (từ 5 giờ chiều đến 7 giờ tối). Tín đồ tại tư gia cũng cúng tứ thời theo giờ qui định nêu trên. Có sự khác biệt về giờ khởi sự cúng tứ thời giữa các thánh thất Cao Đài. Tòa thánh Tây Ninh qui định cúng đúng 12 giờ khuya, 6 giờ sáng, 12 giờ trưa và 6 giờ chiều; trong khi đó một số Hội thánh khác (trong đó có Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo) bắt đầu cúng tứ thời vào lúc 11 giờ khuya, 5 giờ sáng, 11 giờ trưa và 5 giờ chiều.

Bốn giờ Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu có vị trí rất đặc biệt; giờ Tý và Ngọ nằm trên trục thẳng đứng, trong khi giờ Mẹo và Dậu nằm trên trục ngang. Hai trục thẳng đứng và nằm ngang giao tiếp với nhau tạo thành hình chữ thập; cho nên, có thể nói đây là biểu tượng của “nhứt âm nhứt dương chi vị Đạo”. Do đó, tứ thời là bốn thời khắc rất quan trọng đối với vũ trụ bên ngoài; cho nên, người tín hữu Cao Đài cúng vào bốn giờ nầy sẽ tạo ra sự hiệp nhất giữa tiểu vũ trụ của nhơn thân và đại vũ trụ ngoại giới. Con người sẽ hấp thu được năng lượng của vũ trụ bên ngoài vào nội thân, tiếp nhận được hồng ân của Đức Chí Tôn nhiều nhất trong một ngày so với các giờ khác.

Cúng tứ thời bao gồm cả Tam công

* Công quả Khi cúng tứ thời với tâm thanh tịnh và lòng thành kỉnh sẽ tạo ra công năng cứu độ có thể xoa dịu hoàn cảnh khổ đau bên ngoài, hóa giải những ác nghiệp kết tụ, ban vui cứu khổ cho bá tánh chúng sanh và đồng thời tác động trở lại bản thân ngõ hầu giúp cho người tín hữu được minh tâm kiến tánh, thân thể mạnh khỏe, tinh thần an vui.

Kết thúc buổi cúng là phần cầu nguyện gồm năm điều: Nhứt nguyện Đại Đạo hoằng khai, nhì nguyện phổ độ chúng sanh, tam nguyện xá tội đệ tử, tứ nguyện thiên hạ thái bình, và ngũ nguyện thánh thất an ninh. Khi người tín hữu cầu nguyện với tinh thần vô ngã, thanh tịnh, và kỉnh thành thì nguyện lực vô cùng linh ứng. Lúc ấy, sự cầu nguyện tạo ra công đức vô lượng.

Nếu cúng tứ thời tại tịnh thất với số lượng đạo hữu càng đông sẽ tạo nên một tấm lưới thiêng vẹt tan mọi chướng duyên giúp chúng sanh cải ác tùng lương, hồi đầu hướng thiện; công đức càng thâm sâu.

* Công trình Cúng tứ thời có tác dụng giúp cho người tín hữu khắc phục tính lười biếng. Giờ Tý và giờ Mẹo phải vượt qua sự buồn ngủ của xác thân, giờ Ngọ và Dậu do tại bị chuyện nầy chuyện nọ. Như vậy cúng tứ thời giúp cho đạo hữu tinh tấn trên đường tu.

Lại nữa, khi cúng tứ thời tại tịnh thất đạo hữu sẽ có động lực của tập thể thúc đẩy bản thân mình vượt qua những lúc biếng lười, mệt mỏi. Như vậy, nhờ có sức mạnh của tập thể nên từng cá nhân có thể dựa vào đó tự thắng bản thân.

Cúng tứ thời với tâm chí thành, thanh tịnh sẽ tạo công năng đại định giúp cho đạo hữu phát huy được tác phong đạo hạnh thuần thành đạo đức. Đây chính là việc vun bồi gốc rễ, tất nhiên sẽ sum suê cành lá. Khi tâm an định tất yếu đức hạnh sẽ hiện bày ra bên ngoài.

* Công phu Việc cúng tứ thời sẽ đạt kết quả rất mầu nhiệm khi đạo hữu chú ý tập trung vào lời kinh; ngoài ra, người tín hữu cũng cần hiểu được ý nghĩa của kinh để có thể “tinh nghĩa nhập thần” vào từng câu của bài kinh cúng tứ thời. Như vậy, cúng tứ thời chính là thực hành công phu. Bởi lẽ, lúc ấy thân và tâm của đạo hữu hiệp nhất với nhau. Trong lúc thân (miệng) đọc kinh, tâm của đạo hữu chuyên chú vào từng câu và nghĩa lý của câu kinh đó. Đây chính là quá trình công phu vậy.

Ích lợi của việc cúng tứ thời

Khi cúng tứ thời, đạo hữu tập trung hết tinh thần vào việc nhìn Thiên nhãn và hiểu ý nghĩa từng câu kinh. Thiên nhãn chính là Thần của Đức Chí Tôn nơi cõi thế gian trong Tam kỳ Phổ độ, thị hiện tại đền thờ Đức Chí Tôn là Thiên bàn. Nhìn Thiên nhãn tức là sự hiệp thần giữa tiểu thiên địa và đại thiên địa, giữa con người và Thượng Đế. Chính sự hiệp thần nầy sẽ tạo ra sự giao cảm thiêng liêng vô cùng mầu nhiệm. Nhờ tập trung thần lực nhìn vào Thiên nhãn nên con người đã nhận được sự hộ trì thiêng liêng từ Đức Chí Tôn ngõ hầu giúp cho thân thể khỏe mạnh, bệnh tật tiêu trừ, trí huệ phát sinh, tâm linh mẫn tuệ, v.v. “Cúng tứ thời có ích cho các con lắm, chớ không phải ích chi cho Thầy. Nếu cúng được thường thì lòng dạ nở nang, tứ chi luân chuyển, có nhiều khi tật bệnh tiêu diệt.” Khi đạo hữu đến Chánh điện nơi thánh thất hoặc Thiên bàn tại tư gia cúng tứ thời tức là đến hành lễ trước Đức Chí Tôn, Đức Diêu Trì Kim Mẫu và các Đấng Thiêng liêng. Con người đọc các bài kinh xưng tụng để phần nào hiểu được đại ân sinh thành dưỡng dục của Thầy Mẹ và đại ân cứu độ giáo hóa của các bậc Giáo Tổ. Qua việc cúng tứ thời hàng ngày, con cái của Đức Chí Tôn đặt trọn đức tin và lòng chí thành lên Đức Đại Từ Phụ và các Đấng thiêng liêng để thực hiện sự cộng thông giữa hai cõi hữu hình và vô sắc giới. Thầy khuyên con cái của Ngài cần siêng năng cúng tứ thời để trừ nghiệp thân, miệng đọc kinh với lòng chí thành để trừ nghiệp khẩu, tâm thường cầu nguyện để trừ tà niệm, mắt nhìn Thiên nhãn để thần trụ tâm an. Sự cúng lạy con nên sốt sắng, Trừ nghiệp thân cho đặng tinh anh, Kệ kinh miệng đọc lòng thành, Để trừ nghiệp khẩu, khỏi sanh não phiền. Con ngày đêm tâm thiền cầu nguyện, Để diệt trừ vọng niệm ý tà, Tứ thời trẻ ráng gần Cha, Nhìn ngay Thiên Nhãn thì là thần gom.

Đức Quan Âm Bồ Tát nêu lên bốn lợi ích của việc cúng tứ thời gồm: giúp chơn thần được minh mẫn; cầu xin tha thứ tội lỗi; cảm ứng hiệp thông giữa con người và Thượng Đế, giữa con người và các Đấng Thiêng liêng; lương tri lương năng ngày càng thêm mẫn tuệ.

“Các em phải lo cúng kiếng thường: – Một là lập cho chơn thần được gần gũi các Đấng Thiêng liêng cho đặng sáng láng. – Hai là cầu khẩn với Đức Đại Từ Bi tha thứ tội tình cho các em và cả chúng sanh. – Ba là có tế lễ thì tâm phải có cảm, cảm rồi mới ứng là lẽ tự nhiên. – Bốn là tâm có cảm thì lòng bác ái mới mở rộng, mà nhứt là khiếu lương tri, lương năng của các em cũng nhờ đó mà lần hồi thành ra mẫn huệ. Các em nhớ à!”

Ngoài ra, cúng tứ thời tại thánh thất với số lượng đạo hữu càng đông, càng thanh tịnh sẽ tạo ra được công năng càng lớn lao. Đó chính là tấm lưới thiêng có thể đem lại điển lành bố hóa cho bá tánh chúng sanh; đồng thời thắt chặt tình huynh đệ trong nội bộ thánh thất càng thêm gắn bó.

Thực hành việc cúng tứ thời

Ban đầu, người tín hữu Cao Đài cúng tứ thời hàng ngày tại tư gia cần vượt qua một số trở ngại như trạng thái buồn ngủ vào thời Tý và thời Mẹo, bận rộn công việc vào thời Ngọ và thời Dậu. Khi thực hành một thời gian, việc cúng tứ thời sẽ trở thành một nếp sinh hoạt hay thói quen hàng ngày. Lúc đó, đạo hữu không cần phải cố gắng mà vẫn giữ theo khuôn phép. Song, từ chỗ chưa cúng một thời nào trong ngày, người tín hữu cần bắt đầu khởi sự cúng một thời bất kỳ nào thuận tiện nhất trong ngày (Tý, Ngọ, Mẹo, hay Dậu). Đây là bước khởi đầu rất có ý nghĩa để gieo ý thức và tạo thói quen. Sau đó tăng dần lên hai thời, ba thời và đạt đến bốn thời trong ngày. Tuy nhiên, khi tín hữu cúng tứ thời tại thánh thất sẽ có một lợi thế do từng cá nhân có thể nương tựa vào tập thể để vượt qua những điều trở ngại nêu trên. Bởi lẽ, con người thường có tâm lý hay dựa vào lý do nầy hoặc lý do nọ để tạm ngưng một buổi cúng như: nhức đầu, mệt mỏi, bận rộn, v.v. Nếu không vượt qua được chướng ngại tâm lý nầy, người tín hữu lần hồi mất đi thói quen cúng tứ thời nữa. Ngược lại, mỗi lần vượt qua rào cản tâm lý, thói quen cúng thời càng được củng cố thêm vững chắc.

Lại nữa, Đức Chí Tôn đã gom tụ cả Càn khôn thế giới vào trong cách bày trí phẩm vật trên bàn thờ Thầy. Mỗi lần cúng tứ thời, môn đệ Đức Chí Tôn nhìn Thiên bàn hiểu được con đường tu hành để hiệp nhứt cùng Thầy.

“Tôn chỉ đạo Cao Đài tỏ rõ, Mượn hữu hình bày tỏ chỗ vô, Thiên bàn làm cái bản đồ, Coi ngoài mà biết điểm tô trong mình.”

Thiên bàn hay bàn thờ Đức Chí Tôn gồm có 12 phẩm vật: Thánh tượng Thiên nhãn, đèn Thái cực, dĩa trái cây, bình bông, tách nước trà, ba ly rượu, tách nước trắng, hai cây đèn, và lư hương. Số 12 nầy tượng trưng cho Thập nhị Khai thiên là Đức Thượng Đế. Một cách tóm tắt, Thánh tượng Thiên nhãn và đèn Thái cực tượng trưng Đức Thượng Đế và ngôi Thái cực. Hai cây đèn tượng trưng cho lưỡng nghi, âm dương, nhựt nguyệt, tức là từ Thái cực sinh lưỡng nghi. Lư hương gồm năm cây nhang tượng trưng cho năm giai đoạn của người tu gồm: Giới hương (cây hương ở giữa) là giữ trọn giới luật qui điều; Định hương (cây hương bìa bên trái) là thiền định; Huệ hương (cây hương bìa bên phải) là trí huệ phát sinh do thiền định; Tri kiến hương (cây hương hàng ngoài bên trái) là đắc lục thông; Giải thoát hương (cây hương hàng ngoài bên phải) là giải thoát khỏi luân hồi sanh tử. Tách nước trà (bên phải thuộc âm) tượng trưng cho Thần của con người, tách nước trắng (bên trái thuộc dương), tượng trưng cho Khí của con người. Cúng hai chén nước âm dương tượng trưng cho sự hòa hiệp giữa âm dương. Ba ly rượu tượng trưng cho Khí, tức là Hư Vô chi khí do Đức Diêu Trì Kim Mẫu chưởng quản. Ba ly rượu còn tượng trưng cho ba cõi là Hạ giới, Trung giới và Thượng giới; và ba bực tu hành là Hạ thừa, Trung thừa và Thượng thừa.

“Hai chén nước là âm dương (động và tịnh). Âm dương là cơ động tịnh của Trời đất tức là Thần Khí của các con. Tu hành không nhờ Thần Khí lấy gì luyện đắc Thánh thai? Trời đất không có âm dương làm sao hóa sanh vạn vật? Muôn vật không trống mái làm sao sanh sản thêm ra? Vậy âm dương là cái diệu động tịnh của Trời đất vậy. Âm dương lại có thêm cái thể dụng của âm dương nữa là nhựt, nguyệt, tức là cặp đèn (lưỡng nghi). Người tu hành biết cách hồi quang phản chiếu thì đắc kim đơn, cơ tại mục là vậy. Trên có lư hương tức là Tiên thiên lập đảnh, tượng ngũ khí, ngũ hành. Dưới có lư trầm là hậu thiên an lư, hóa ngũ linh, ngũ đức. Trên đầu là đảnh, dưới đơn điền là lư. Còn Hoa, Quả, Trà là Tam bửu của các con. Ngày nào hiệp Tam bửu rồi là thành Đạo.”

Tân Luật qui định rằng, người tín hữu mỗi tháng phải đến thánh thất hiến lễ trong hai ngày Sóc Vọng.

Tạm kết Cúng tứ thời là một pháp môn tuy đơn giản, nhưng khi thực hành đều đặn hàng ngày sẽ giúp cho người tín hữu được thân an, thần định, trí huệ. Cúng tứ thời cũng chính là pháp môn tu hành của người tín hữu Cao Đài. Bởi lẽ, cúng tứ thời gồm đủ tam công: công quả do cầu nguyện cho cơ đạo hoằng khai, cho thiên hạ thái bình, cho thánh thất an ninh; công trình do sự trì chí tinh tấn trong việc cúng tứ thời hàng ngày; công phu do thân tâm hiệp nhứt trong việc nhìn Thiên nhãn và tinh nghĩa nhập thần từng câu kinh. Trước tiên, người tín hữu Cao Đài cần bắt đầu việc cúng kính một thời trong ngày và duy trì đều đặn không gián đoạn. Khi có điều kiện sẽ gia tăng hai thời, ba thời và sau cùng là bốn thời trong ngày.

Khi cúng tứ thời, người tín hữu Cao Đài ý thức cách bày trí trên Thiên bàn là cái bản đồ để hiểu được guồng máy thiên cơ và con đường phối thiên của tiểu thiên địa.

Thiện Hạnh 04-3-2011

Bạn đang xem bài viết Vài Nét Về Chữ Hiếu Trong Đạo Cao Đài Qua Quyển Kinh Thiên Đạo Và Thế Đạo trên website Iseeacademy.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!