Cập nhật thông tin chi tiết về Ý Nghĩa Và Tác Dụng Của Lễ Bái mới nhất trên website Iseeacademy.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Trước hết, chúng ta phải hiểu thế nào là lễ ? Thế nào là lễ bái ?
Lễ, theo Tự điển Tiếng Việt của viện ngôn ngữ học Việt Nam, là phép tắc phải tuân theo khi thờ cúng tổ tiên, quỷ thần, hoặc giao tế trong xã hội. Nói một cách rộng rãi dễ hiểu hơn, đây là những quy tắc nhất định của cung cách, đi đứng, nói năng trong Quan, Hôn, Tang, Tế, nhằm thể hiện sự cung kính và bao gồm cả những phép lịch sự chào hỏi nhau để biểu lộ sự thân thiện quen biết. Nó còn là một phương tiện đặc biệt để gây tình cảm. Người dưới gặp người trên mà không biết chào hỏi là thiếu lễ độ. Người trên không biết đáp lại lời chào của người dưới, thường bị mang tiếng là hách dịch, khinh người.
Bái là sự cung kính biểu hiện ở thân tướng, nghĩa là quỳ lạy, bằng cách hạ mình xuống trước những bậc Hiền đức mà mình tôn kính. Lễ bái tiếng Phạn là Vandana, Tàu dịch âm là Ban-đàm, còn gọi là Hòa nam, hoặc gọi là Na-mô Tất-yết-la. Có nghĩa là ý tôn kính biểu hiện ra ở thân tướng, là lễ nghi cung cách với hình thức cúi đầu quỳ lạy trước những bậc tiền nhân, Thánh đức mà mình đã đặt trọn niềm tin quy ngưỡng hướng về, như lạy chư Phật, chư Hiền Thánh, như lạy tổ tiên, cha mẹ, thầy tổ v.v…
Lễ bái là một đạo nghĩa nhằm tiêu biểu cho ý chí tôn kính, để tỏ lòng tri ân và báo ân ngõ hầu trở thành những con người hữu ích trong xã hội, để làm tròn bổn phận của con cháu tông môn và để xứng đáng là đệ tử các bậc Thánh đức. Lễ bái còn là một phương pháp tu để diệt trừ lòng ngã mạn cống cao, diệt trừ những phiền não, nghiệp chướng.
Lễ bái là một nghi thức tín ngưỡng thường thấy ở một số tín ngưỡng tôn giáo phương Đông. Khởi nguyên, lễ bái biểu thị sự phục tùng, tôn kính tuyệt đối với các uy lực siêu nhiên, đấng thần linh mà con người tôn thờ. Dần dần, tùy theo sự phát triển của mỗi tôn giáo mà có những ý nghĩa khác nhau trong cách thức lễ bái. Ở đây, chúng tôi không thể so sánh hết tất cả các hình thái nghi lễ mà chỉ giới hạn tìm hiểu cách thức lễ bái của Khổng giáo và Phật giáo mà thôi.
Theo truyền thống Việt Nam, dân tộc ta phần đông chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hóa Khổng giáo và Phật giáo. Do đó, mỗi người dân đều chịu ảnh hưởng không ít cách lễ bái của hai tôn giáo này. Thời xưa vua chúa đã quy định rõ ràng, mỗi người dân khi lễ bái vua, quan, hiền thần, đình miếu thì phải áp dụng theo cung cách của Khổng giáo và khi lễ bái Phật trời, Hiền thánh, Tổ tiên, ông bà v.v… thì phải áp dụng theo cung cách của Phật giáo.
Cách lạy của Khổng giáo, trước hết con người phải đứng thẳng là tiêu biểu cho cái uy của kẻ sĩ. Hai tay cung thủ là tiêu biểu cho cái dũng của Thánh nhân. Trước khi lạy, hai tay cung thủ đưa lên trán, kế đưa sang phải, rồi đưa phía trái là tiêu biểu cho Tam tài (Trời, Đất và Người). Khi lạy, hai tay cung thủ chống lên đầu gối chân mặt và quỳ chân trái xuống trước là tiêu biểu cho sự tôn kính mà không mất tư thế cái uy dũng của kẻ sĩ. Cúi đầu xuống đất là tiêu biểu cho sự cung kính những bậc mà mình đảnh lễ. Đó là cung cách và ý nghĩa tổng quát lễ bái theo quan niệm của Khổng giáo.
Lễ bái theo quan niệm của Phật giáo có phần khác biệt về cung cách cũng như về ý nghĩa so với Khổng giáo. Riêng về ý nghĩa và giá trị lễ bái được rất nhiều kinh luận đề cập đến. Phật giáo quan niệm, vì sự sùng kính ân đức vô lượng, trí tuệ vô biên của chư Phật mà hàng Phật tử đã biểu lộ sự thành kính ấy qua hình thức lễ bái và noi theo gương sáng của chư Phật, chư Hiền thánh để phát triển hạnh lành, tiến tu đạo nghiệp đạt được trí tuệ giải thoát như các Ngài. Trong nhân quả của sự tôn kính thì “kính thầy sẽ được làm thầy”.
Sự lễ bái cũng là phương pháp tu để diệt trừ sự cống cao, ngã mạn – bản chất con người chúng ta lúc nào cũng luôn tự cao tự đắc, vênh váo nghênh ngang, xem “cái tôi” của mình là trung tâm vũ trụ. Đó là tánh xấu khiến mọi người chán, xa lánh làm tiêu mòn công đức. Chúng ta ý thức được điều này, vì tự mình thấy mình không sánh kịp các Ngài, biết mình thấp kém tài đức nên phải kính lạy Phật, Bồ-tát và các bậc tôn túc để diệt trừ tâm ngã mạn thì tự nhiên tánh ngạo mạn từ từ biến mất. Ngoài ra, lễ bái còn là pháp hành căn bản mà người con Phật phải hành trì tinh tấn để giải thoát các nghiệp chướng mà chúng ta đã gây tạo từ nhiều đời nhiều kiếp. Trong Phật giáo, có nhiều cách lễ bái.
Theo sách Đại Đường Tây Vực Ký, quyển 2, ghi rằng : Ấn Độ có chín cách lễ bái được gọi là “Tây Trúc cửu nghi”. Chín cách lễ bái đó như sau :
1. Phát ngôn úy vấn lễ : Mở lời thưa hỏi. 2. Phủ thủ thi kính lễ : Cúi đầu biểu thị sự cung kính. 3. Cử thủ cao ấp lễ : Đưa tay cao vái chào. 4. Hiệp chưởng bình cung lễ : Chắp tay ngang vái chào. 5. Khuất tất lễ : Cúi gập đầu gối. 6. Trường quỳ lễ : Quỳ nằm dài ra. 7. Thủ tất cứ địa lễ : Tay và gối quỳ sát. 8. Ngũ luân câu khuất lễ : Năm vóc co lại. 9. Ngũ thể đầu địa lễ : Năm vóc gieo xuống đất.
Trong Kinh Pháp Hoa, chúng ta thấy có một đoạn miêu tả về những cách lễ trên :
“Hoặc có người lễ bái Có người chỉ chấp tay Cho đến giơ một tay Có người lại cúi đầu Để cúng dường tượng Phật Sẽ thấy Phật vô lượng Tự thành đạo Vô thượng”.
Phật giáo cho rằng, người Phật tử ngoài sự lễ bái chư Phật, chư Bồ-tát, chư Hiền Thánh Tăng ra còn phải tưởng niệm ân đức cao dày của các Ngài và phát nguyện suốt đời hướng về các Ngài để tiến tu đạo nghiệp, nên được gọi là quy mạng lễ.
Trong kinh Tăng Nhất A Hàm, đức Phật dạy :
“Thiện Nghiệp đã lễ trước Đầu tiên không lỗi lầm Cửa giải thoát trống không Đây là nghĩa lễ Phật Nếu người muốn lễ Phật Vị lai và quá khứ Nên quán pháp trống không Đây là nghĩa lễ Phật.”
Nhân thừa Phật giáo chia lễ bái ra làm 7 cách lạy. Bảy cách lạy này do ngài Tam tạng Pháp sư Lặc Na phân chia ra, trong sách Pháp Uyển Châu Lâm có nói rõ về nguyên nhân và hoàn cảnh vì sao phải chia ra 7 cách lạy này :
1. Ngã mạn lễ : Nghĩa là lạy với tâm ngã mạn, tâm kiêu căng. Người lạy Phật hoặc lạy ông bà, tổ tiên vì hoàn cảnh bắt buộc phải hành lễ, nhưng thâm tâm của họ không muốn lạy, do đó họ lạy với cử chỉ ngạo nghễ, thái độ kiêu căng, không chút nào lễ độ cung kính cả. Hoặc có người cậy thế ỷ quyền cao chức trọng, thẹn khi chào hỏi người kém hơn mình, tâm không dựa vào phép tắc lễ nghi. Tuy có lễ bái nhưng tâm chạy theo ngoại cảnh. Đầu họ lạy không sát đất và họ đứng lên cẩu thả cho qua chuyện. Họ sợ mất thể diện với bạn bè và sợ dơ bẩn quần, nên buộc lòng phải lễ bái theo kiểu Ngã mạn để bạn bè khỏi chê trách mình là kẻ bất hiếu, bất nghĩa, bất trung, bất tín. Cách lạy đó gọi là Ngã mạn lễ.
(Hai cách lạy vừa trình bày trên là hành động dối trá, không thể có nơi người đạo đức chân chánh. Sở dĩ Pháp sư Lặc Na nêu ra là nhằm mục đích ngăn ngừa chúng ta).
3. Thân tâm cung kính lễ : Nghĩa là người lễ lạy phải thể hiện thân và tâm đều cung kính. Do thân tâm cung kính không nghĩ đến việc khác, kính cẩn cúng dường tình không chán đủ. Lễ lạy bằng sự tha thiết chí thành cả thân và tâm vì họ có đức tin trong sự lễ lạy nên sự cảm ứng của họ rất dễ dàng giao cảm với chư Phật, với Thánh hiền, với ông bà Tổ tiên. Thân tâm cung kính là cách lạy cơ bản trong Phật giáo về mặt sự tướng, hay nói cách khác về mặt hình thức mà người xuất gia và tại gia phải hành trì nghiêm túc.
Thân tâm cung kính lễ, công đức tuy lớn nhưng thật sự chưa phải là mục đích cứu cánh trong lễ bái. Thân tâm cung kính lễ chỉ là phương tiện nhờ đó mà hành giả tiếp tục tiến đến lãnh vực Thánh giáo lễ của các bậc Thánh chúng về mặt lý tánh không cảm thấy trở ngại.
4. Phát trí thanh tịnh lễ : Lạy phát trí thanh tịnh, nghĩa là hành giả tu tập thiền quán cho đến khi trí tuệ thanh tịnh phát sanh từ nơi chơn tâm là Thánh trí, chứ không phải trí tuệ phát sanh từ thức tâm. Trí tuệ phát sanh từ thức tâm thuộc về nơi mà phàm trí còn bị giới hạn bởi căn và trần. Trái lại, Thánh trí đã thoát ra vòng cương tỏa của cả hai. Trong phép lạy này, hành giả phải thấu suốt rằng: cảnh giới của chư Phật đều hiện bày từ nơi chân tâm và trí tuệ thanh tịnh của mình cũng phát sanh từ bản tâm thanh tịnh. Cho nên người lễ bái một đức Phật tức là lạy tất cả chư Phật trong mười phương không ngăn ngại. Lạy một lạy tức là lạy tất cả pháp giới, vì Pháp thân của Phật dung thông.
5. Biến nhập pháp giới lễ : Lạy khắp vào pháp giới. Nghĩa là trong phép lạy này, hành giả phải tận dụng trí tuệ tự quán thân, tâm cùng tất cả pháp giới, từ hồi nào đến giờ không rời pháp giới. Pháp giới tánh tức là thể tánh của vạn pháp biến mãn khắp thế giới và thường trụ bất diệt. Pháp giới tánh là nơi chư Phật thường an trụ để hiện thân hóa độ chúng sanh. Hành giả thực hiện phép lạy này là quán chiếu thân và tâm nơi chính mình biến nhập vào pháp giới tánh của vạn pháp một cách dung thông, giống như bác sĩ sử dụng quang tuyến X (X-ray) rất lớn chiếu vào thân thể con người và năng lượng quang tuyến X thấu suốt xuyên qua thân thể người không chút ngăn ngại. Đó mới là lạy theo phương pháp Biến nhập pháp giới lễ.
6. Chánh quán lễ : Lạy chánh quán nghĩa là quán chiếu Phật tự tâm của chính mình không duyên cảnh khác. Trong phép quán này, hành giả lễ lạy đức Phật ngay nơi tự tâm của mình, chứ không duyên đức Phật nào khác, vì tất cả chúng sanh từ xưa đến nay, đều sẵn có Phật tánh viên mãn, bình đẳng, chân giác.
7. Thật tướng bình đẳng lễ : Lạy thật tướng bình đẳng nghĩa là trong phép lễ này, hành giả dùng trí tuệ quán chiếu thật tướng của vạn pháp đều thể hiện một cách bình đẳng, không sai biệt. Không có nhân ngã bỉ thử, tức là người lễ bái không thấy mình lạy và người để cho mình lạy. Nói một cách khác, người thực hành phép lễ này là dùng trí tuệ quán chiếu thật tướng vạn pháp để nhận thấy rằng: mình và người, thể và dụng, phàm và thánh thảy đều vắng lặng không hai (đều nhất như). Bồ-tát Văn Thù dạy rằng : “Năng lễ sở lễ tánh không tịch”, nghĩa là thể tánh của mình đang lạy và thể tánh của người để mình lạy thảy đều vắng lặng và bình đẳng.
(Bốn cách lạy: Phát trí thanh tịnh, Biến nhập pháp giới, Chánh quán và Thật tướng bình đẳng là những pháp môn thuộc về lý lễ bái của các bậc Đại thừa Bồ-tát thường tu tập để thể nhập vào pháp giới tánh của chư Phật).
Tác dụng và lợi ích của sự lễ lạy xét về phương diện y học : Khi khấu đầu làm lễ, toàn bộ các chi trong cơ thể đều vận động, lại thêm vào sự chuyên chú về tinh thần tình cảm, động tác khoan thai, không những có thể giải tỏa sự căng thẳng tinh thần mà còn có thể làm cho gân cốt thả lỏng, máu huyết lưu thông. Trong khi làm lễ, tâm ý chân thành, ý thức và động tác đều theo chỉ dẫn của tâm linh, tất cả những cái đó đều có lợi cho sức khỏe và có tác dụng phòng trừ tật bệnh.
Tác dụng và lợi ích của sự lễ bái trong kinh điển : Đức Phật đã chỉ giáo rất rõ ràng. Kinh Tăng Nhất A Hàm, quyển 24 có ghi : Cung kính lễ Phật sẽ được 5 phần công đức :
1. Đoan chánh : Nghĩa là người lễ bái, thường chiêm ngưỡng dung nhan và tướng hảo của đức Phật liền khởi niệm hoan hỉ và phát tâm mơ ước mong cầu. Nhờ nhân duyên đó, họ qua kiếp sau có thể hưởng được tướng mạo đoan trang tốt đẹp (Ngũ trược chúng sanh linh ly cấu, đồng chứng Như Lai tịnh Pháp thân).
2. Hảo thinh : Nghĩa là người lễ bái xưng tụng hồng danh của chư Phật. Nhờ nhân duyên đó đời sau họ sẽ được tiếng nói lảnh lót trong trẻo tốt đẹp (Niệm Phật nhứt thanh, phước tăng vô lượng. Lễ Phật nhứt bái tội diệt hà sa).
3. Đa tài bảo : Nghĩa là người lễ bái thường dâng hoa, đốt đèn v.v… để cúng dường các đức Như Lai. Nhờ nhân duyên đó đời sau hưởng nhiều tiền của vật báu.
4. Sanh Trưởng giả gia : Người lễ bái đem tâm không chấp trước, chắp tay, quỳ gối, chí thành lễ Phật. Nhờ nhân duyên đó, đời sau họ được sanh vào nhà giàu sang, quý tộc.
5. Sanh Thiện xứ thiên thượng : Nghĩa là nhờ công đức lễ bái các đức Như Lai, người lễ bái sẽ được sanh vào các cõi lành, hoặc các cõi Trời.
Tóm lại, lễ bái không phải là hành động thấp hèn làm mất phẩm cách con người, gợi lên dấu ấn phong kiến. Trái lại, lễ bái chính là một đạo nghĩa, một nghĩa cử rất cao đẹp của những người sống có văn hóa. Đối với tổ tiên, người hiếu hạnh cần phải lễ bái để tỏ lòng cung kính. Đối với Thánh hiền, tín đồ chân chánh cần phải lễ bái để thể hiện đức tính khiêm cung trong tu tập đạo lý Giác ngộ. Lễ bái nhằm giao cảm với bề trên và tạo nên chất liệu để xóa bỏ mọi dị biệt ngăn cách chia rẽ trong đoàn thể. Lễ bái tạo ra sự lễ phép và thân thiện không chia rẽ nhằm thêm bạn bớt thù tạo ra một xã hội thanh bình an lạc.
Trong xu thế hướng về cội nguồn văn hóa dân tộc, chúng ta nên phát huy truyền thống lễ bái vì đây là những thuần phong mỹ tục. Lễ bái là tinh hoa, là nét đẹp trong đời sống sinh hoạt văn hóa tâm linh. Khi xa quê, khi tuổi cao tác lớn, khi có người thân qua đời chừng ấy chúng ta sẽ thấy việc lễ bái với những động tác quỳ xuống, đứng thẳng lưng, rồi quỳ xuống là cần thiết biết dường nào ! Nó thay cho những lời nói, những lời phát biểu, những cảm tưởng dông dài, đây gọi là tấm lòng thành của mình.
Lễ bái có ý nghĩa là báo ơn, tạ ơn với cung cách quy ngưỡng hướng về, cũng như noi gương đức hạnh cao quý và ý chí siêu thoát của các bậc tôn kính để tu tập. Người lễ bái mong cầu sau này kế thừa xứng đáng sự nghiệp của tiền nhân trên con đường giác ngộ khổ đau sanh tử. Lễ bái là một nét đẹp văn hóa có ý nghĩa giáo dục sâu sắc, cho nên trong mỗi người Phật tử không thể thiếu nghĩa vụ với nghi cách lễ bái cao đẹp này.
Thích Thánh Minh
Ý Nghĩa Của Lễ Bái Và Sự Thờ Cúng
Hàng ngày chúng ta vẫn thờ cúng, lễ bái hay cầu nguyện nhưng mấy người tìm hiểu sâu xa bản chất của việc này. Do vậy bằng những sự tìm tòi chúng tôi xin giới thiệu 1 bài viết khá rõ ràng giải thích bản chất của việc thờ cúng và lễ bái để bạn đọc tham khảo.
Cuộc sống của gia đình chúng tôi thì cũng chẳng khác chi mọi gia đình khác trên đất nước mới này. Ngày ngày thì phải lo đi cày, tối về thì lo cho con cái và ngày qua tháng lại cũng không có nhiều thì giờ rảnh rỗi để đi chùa bái Phật. Chúng tôi cũng cố gắng đến chùa trong những lễ lớn để cầu nguyện Phật trời cho được nhiều phước lành. Thú thật cứ mỗi lần đi chùa là chúng tôi cầu nguyện đủ thứ từ gia đình mạnh khỏe, làm ăn phát đạt, con cháu học hành tiến bộ. Tất cả những gì có lợi cho mình là chúng tôi cầu nguyện hết.
Bây giờ hãy suy nghiệm lại những lời cầu nguyện trên có thực sự hiệu quả như thế trong đời sống của chúng ta không?
Nhưng trước hết hãy tìm hiểu ý nghĩa của chữ cầu nguyện. Trong thế giới của những tôn giáo tin tưởng và thờ Thượng đế ( là Đấng tối cao, toàn năng, toàn thiện, toàn trí đã sáng tạo ra thế gian, vũ trụ, và được xem là thủy tổ của muôn loài), thì cầu nguyện có nghĩa là thỉnh cầu ở nơi Ngài một sự chỉ đạo, hộ trì, hoặc cầu xin Ngài ban cho sức khỏe, hạnh phúc, cơm no, áo ấm, và đôi khi xin Ngài tha thứ những tội lỗi đã vi phạm.
Nhưng trong Phật giáo không có vấn đề tội lỗi (hiểu theo nghĩa xúc phạm ý trời). Khi một người hành động phi luân lý hay phản đạo đức, thì Phật giáo gọi đó là hành động không khôn ngoan hay bất thiện. Sở dĩ có hành động sai lầm hay bất cẩn là vì si mê, thiếu sáng suốt, nhưng tôn giáo thờ Thượng đế thì xem đó là có tội một khi vi phạm hay bất tuân những điều răn do vị giáo chủ hay trời phán định. Trái lại, theo giáo lý nhà Phật dù là Phật tử hay không mà trộm cắp, tà dâm, dối trá… thì đó là hành động sai lầm, bất thiện vì chính họ đã tạo ra cái nghiệp xấu cho mình và dĩ nhiên là họ sẽ tự chuốc lấy kết quả xấu xa hay nghiệp báo đau thương sau nầy. Chẳng hạn như một kẻ ngu si đưa tay vào lửa thì dĩ nhiên là bị phỏng chứ không phải là tội lỗi hay xúc phạm trời thần gì cả. Những hành động không khôn ngoan, sai lầm, hay bất cẩn này sẽ làm trì trệ tiến trình giải thoát của họ mà thôi.
Theo Đạo Phật, thì con người là Thượng đế của chính mình chứ không ai khác bởi vì tất cả các điều kiện, kể cả nghiệp đều có thể tự mình sửa đổi được. Bởi thế, hạnh phúc hay khổ đau đều do chính chúng ta tự tạo lấy cho mình. Hay nói một cách khác được tự do hay nô lệ tùy thuộc ở chỗ con người làm chủ các điều kiện hay bị các điêu kiện làm chủ. Thêm nữa, những tín đồ thờ thần linh cầu xin được ban phước hay cứu rỗi, nghĩa là đời đời họ muốn lệ thuộc vào vị thần linh hay Thượng đế của họ. Người Phật tử thì trái lại, chúng ta kính cẩn tôn thờ Đức Phật chỉ vì Ngài là người đã đi trước, là người hướng đạo. Và với tinh thần bình đẳng Đức Phật lúc nào cũng khuyến khích chúng sinh cố gắng diệt trừ vô minh để cắt đứt dây luân hồi sanh tử mà chứng được Niết Bàn.
Theo Phật giáo, tất cả những hành động mang tánh chất cố ý đều gọi là nghiệp mà nó được phát xuất từ Thân, Khẩu, Ý. Mỗi người phải chịu trách nhiệm về kết quả của những hành động thiện hay ác này dù kết quả đó tốt hay xấu, vui hay khổ. Như vậy, không có vấn đề cầu nguyện trong Phật giáo theo ý nghĩa thông thường tức là cầu xin Thượng đế ban ơn, tha tội, vì mọi người phải chịu trách nhiệm với chính mình chứ không ai khác về những hành động tội, phước, lành, dữ do mình tạo ra.
Một thí dụ điển hình nữa là chúng ta hãy tạm so sánh giữa hai chế độ dân chủ ngày nay và quân chủ ngày xưa. Trong chế độ quân chủ ngày xưa, mọi người dân là con cái hoặc nô lệ của vị Đế vương. Họ phải tuân phục mọi phán xét, thưởng phạt của vua và vì thế mới có câu:”Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Nhưng chúng ta đang sống trong chế độ dân chủ ngày nay,người dân có quyền bình đẳng, cho dù Tổng thống cũng là một công dân như bao người khác. Chúng ta kính trọng vị nguyên thủ quốc gia bởi vì vị nầy thay thế chúng ta để lãnh đạo, để lo việc nước, làm ích quốc lợi dân. Và tất cả mọi người dân đều có thể trở thành nhà lãnh đạo nếu họ có đủ tài, đủ đức.
Trước khi nhập diệt, Đức Phật còn nhắc nhở chúng tăng là:
“Sau khi Như Lai tịch diệt, các con hãy lấy giới luật làm thầy. Thực hiện đứng đắn những lời giáo huấn của Như Lai, Đó là cách cúng dường Như Lai cao thượng nhất”.
Đức Phật cũng dạy rằng:” Lễ bái tượng Phật không có nghĩa là chúng ta tin rằng Đức Phật sau khi nhập diệt vẫn còn hiện diện trên thế gian để thị hiện trong các pho tượng khiến cho các pho tượng này trở nên linh ứng để có thể hộ trì cho những người lễ bái hay quở phạt những người bất tôn kính đối với Ngài”.
Như thế, việc thờ cúng tụng niệm của người Phật tử không phải là để cầu xin Đức Phật cứu vớt mà chỉ có mục đích tôn kính Đức Phật và tự nguyện noi gương Ngài để hoàn thành sứ mạng tự giác và giác tha.
Chính Đức Phật đã đặt ra năm pháp để nhắc nhở chúng ta hằng ngày siêng năng tu tập để đạt thành chánh quả như Ngài và mỗi pháp có một ý nghĩa cao thâm của riêng nó:
Hương nhang: tượng trưng cho mùi hương thơm thanh khiết của hoa sen ngàn cánh.
Hoa: tượng trưng cho hoa sen ngàn cánh và cũng tượng trưng cho Tâm Bồ đề của chúng ta. Vì mỗi người tu hành đều có một hoa sen ngàn cánh trong ao báu ở trên cõi Phật. Kẻ nào tu niệm càng nhiều thì hoa sen càng lớn, phẩm Phật càng cao.
Quả: tượng trưng cho quả vị Phật, bởi vì sự tu hành của chúng ta phải cố gắng đạt đến thành quả viên mãn.
Đèn: tượng trưng cho trí tuệ bát nhả của chúng ta. Dùng trí tuệ để phá si mê và cúng dùng trí tuệ để phân biệt đâu là chánh, đâu là tà, đâu là chân, đâu là giả.
Nước: tượng trưng cho tâm thanh tịnh, tinh khiết,và không bị ô nhiễm. Nước cũng còn tượng trưng cho tấm long từ bi vô bờ vô bến.
Do đó chúng ta phải cố gắng nghe theo lời dạy của Đức Phật để tu hành ngỏ hầu tự độ và độ tha thì cũng như đã cúng dường cho chư Phật rồi vậy.
Đối với Đức Phật thì Ngài không cần chúng ta quỳ gối bái lạy để vinh danh Ngài mà Ngài chỉ muốn chúng ta cung kính Ngài như cung kính chính bản thân của chúng ta. Vì sự cung kính này, chúng ta bái lạy Ngài với một tấm lòng chân thật và quyết tâm noi gương Ngài cố gắng tu sửa để dứt trừ vô minh vọng tưởng và đạt cho được chơn tâm thanh tịnh.
Tâm thức của con người bị hôn loạn đã lâu, không thể một lúc mà an định. Cho nên người niệm Phật nếu tâm không thanh tịnh thì đừng quá vội lo, chỉ cần khi niệm mỗi chữ mỗi câu đều do nơi tâm phát ra, dụng công bên lâu sẽ có hiệu quả.
Mâm Xôi, Tác Dụng Chữa Bệnh Của Mâm Xôi
Tên khác:
Tên thường gọi: Mâm xôi, Phúc bồn tử, Ðùm đùm, Cơm xôi, Chúc xôi, Mắc hủ (dân tộc Tày), Co hủ (dân tộc Thái), Ghìm búa (dân tộc Dao).
Tên khoa học: Rubus alceaefolius Poir. (R.moluccanus L)
Họ khoa học: thuộc họ Hoa hồng – Rosaceae.
Cây Mâm xôi
(Mô tả, hình ảnh Cây Mâm xôi, phân bố, thu hái, chế biến, thành phần hóa học, tác dụng dược lý…)
Mô tả:
Cây nhỡ mọc trườn, thân, cành, cuống lá, cuống hoa đều có gai nhỏ. Lá đơn có cuống dài, mọc so le, phiến lá chia 5 thuỳ không đều, gân chân vịt, mép có răng không đều nhau, mặt trên phủ nhiều lông lởm chởm, mặt dưới có lông mềm màu xám. Cụm hoa thành đầu hay chùm ở nách lá, màu hồng. Quả hình cầu, gồm nhiều quả hạch tụ họp lại như dáng mâm xôi, khi chín màu đỏ tươi.
Hoa tháng 2-3, quả tháng 5-7.
Bộ phận dùng:
Quả, cành lá – Fructus, Ramulus Rubi Alceaefolii.
Quả mâm xôi hay còn gọi là phúc bồn tử
Nơi sống và thu hái:
Cây mọc hoang ở vùng đồi núi, ven đường đi, trong rừng thưa khắp nước ta.
Quả hái lúc chín, cành lá thu hái quanh năm, thái ngắn, phơi khô.
Cành lá già phơi khô, nấu nước uống thay chè làm dễ tiêu hóa.
Lá sắc uống dùng trị viêm nhiễm ở miệng và cổ họng, hoạt chất có thể là tanin.
Thành phần hoá học:
Quả chứa Vitamin C, pectin, fructoz, acid ellagic và acid hữu cơ khác. Lá chứa tanin.
Tác dụng dược lý:
Chống oxy hóa: quả Mâm xôi có vitamin C, flavonoid, acid ellagic, là những chất chống oxy hóa. Acid ellagic có khả năng chống oxy hóa tương đương vitamin E, vì vậy nên ăn quả Mâm xôi để chống lão hóa, ngừa bệnh tim mạch, đái tháo đường và ung thư.
Bệnh tiết niệu: xưa kia người ta dùng quả Mâm xôi để trị nhiễm trùng đường tiểu, tuy nhiên những thử nghiệm khác không thấy tính kháng khuẩn của dịch quả Mâm xôi. Có báo cáo cho rằng nước sắc rễ và lá trị được nhiễm trùng đường tiểu do E. coli.
Tăng khả năng tình dục: nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy cơ quan sinh dục suy yếu có hàm lượng kẽm thấp. Các nhà khoa học phát hiện trong hạt quả Mâm xôi có hàm lượng kẽm rất cao, được cơ thể hấp thụ tốt. Kẽm là chất dinh dưỡng quan trọng cho tình dục, nó có thể kiểm soát hàm lượng testosteron, giúp nam giới nhanh chóng hưng phấn và tăng cường sức mạnh của tinh trùng. Các nhà khoa học còn khuyên trước khi quan hệ tình dục nên ăn mấy quả Mâm xôi vì trong quả Mâm xôi còn có hàm lượng chất chống oxy hóa rất cao, giúp máu lưu thông tốt hơn tới cơ quan sinh dục.
Vị thuốc phúc bồn tử – quả mâm xôi
(Công dụng, liều dùng, quy kinh, tính vị…)
Tính vị:
Quả Vị ngọt nhạt, tính bình, không độc.
Cành, lá và rễ có vị the, tính bình.
Quy kinh
Vào kinh Vị, Can.
Tác dụng
Quả có tác dụng bổ can thận, giữ tinh khí, làm cường dương mạnh sức.
Lá có tác dụng hoạt huyết, thanh nhiệt, tiêu viêm, tán ứ.
Ứng dụng lâm sàng của Mâm xôi
Chữa viêm gan mạn tính, sưng gan, viêm tuyến vú,
Dùng 30-40g cành lá cây mâm xôi, với cây Ô rô, Mộc thông, mỗi vị 15-20g, sắc uống.
Trị viêm gan cấp và mạn, viêm tuyến vú, viêm loét miệng:
Cành lá cây mâm xôi 30g, ba kích, kim anh, mỗi vị 10 – 15g, sắc uống.
Trị sạn thận:
Mâm xôi làm giảm lượng lớn canxi trong nước tiểu, vì vậy có khả năng chống sạn thận.
Trị đái tháo đường:
Đông y quan niệm đái tháo đường thuộc chứng tiêu khát do chân âm hao tổn. Phế khát gây thích uống nhiều, vị khát gây ăn nhiều không biết no, thận khát sinh ra tiểu nhiều. Quả mâm xôi thanh nhiệt, giải khát, giúp hỗ trợ thanh nhiệt ở các tạng phủ bệnh. Vị ngọt trong quả mâm xôi là fructose, một loại “đường chậm” vì thế người bị đái tháo đường không phải kiêng dùng. Briggs C.J. công bố rằng mâm xôi làm giảm đáng kể glucose huyết ở vật thí nghiệm (Can Pharmaceutical 1997).
Tham khảo
Chỉ định và phối hợp
Quả thường được dùng ăn. Cành lá già phơi khô, nấu nước uống thay chè làm dễ tiêu hoá. Quả chữa đau thận hư, tinh ứ, liệt dương, đái són, vãi đái, hoạt tinh, Di tinh. Liều dùng: 20-30g sắc uống hoặc phối hợp với các vị Ba kích, Kim anh, mỗi vị 10-15g. Cành lá (và rễ) dùng chữa viêm gan cấp và mạn, viêm tuyến vú, viêm loét miệng, dùng cho phụ nữ sinh đẻ uống làm thông máu, tiêu cơm. Cây dùng làm trà uống mát, lợi tiểu tiện. Liều dùng 10-15g hãm hoặc sắc uống.
Lá có vị se, có tác dụng hoạt huyết, thanh nhiệt, tán ứ tiêu viêm. Ở Ấn Ðộ người ta dùng quả làm thuốc chữa bệnh đái dầm của trẻ em. Lá được dùng làm thuốc điều kinh, gây sẩy thai.
Nơi mua bán vị thuốc Mâm xôi đạt chất lượng ở đâu?
Trước thực trạng thuốc đông dược kém chất lượng, nguồn gốc không rõ ràng,… xuất hiện tràn lan trên thị trường, làm ảnh hưởng tới hiệu quả điều trị cũng như ảnh hưởng tới sức khỏe của bệnh nhân. Việc lựa chọn những địa chỉ uy tín để mua thuốc đông dược là rất quan trọng và cần thiết. Vậy khách hàng có thể mua vị thuốc Mâm xôi ở đâu?
Mâm xôi là vị thuốc nam quý, được sử dụng rộng rãi trong YHCT. Hiện tại hầu hết các cửa hàng thuốc đông dược, phòng khám đông y, phòng chẩn trị YHCT… đều có bán vị thuốc này. Tuy nhiên người mua nên chọn những địa chỉ có uy tín, đảm bảo chất lượng, có giấy phép hoạt động để mua được vị thuốc đạt chất lượng.
Với mong muốn bệnh nhân được sử dụng những loại dược liệu đúng, chất lượng tốt, phòng khám Đông y Nguyễn Hữu Toàn không chỉ là đia chỉ khám chữa bệnh tin cậy, uy tín chất lượng mà còn cung cấp cho khách hàng những vị thuốc đông y (thuốc nam, thuốc bắc) đúng, chuẩn, đạt chất lượng cao. Các vị thuốc có trong tiêu chuẩn Dược điển Việt Nam đều được nghành y tế kiểm nghiệm đạt chất lượng tiêu chuẩn.
Vị thuốc Mâm xôi được bán tại Phòng khám là thuốc đã được bào chế theo Tiêu chuẩn NHT.
Giá bán vị thuốc Mâm xôi tại Phòng khám Đông y Nguyễn Hữu Toàn:
Tùy theo thời điểm giá bán có thể thay đổi.
+ Khách hàng có thể mua trực tiếp tại địa chỉ phòng khám: Cơ sở 1: Số 482, lô 22C, Lê Hồng Phong, Ngô Quyền, Hải Phòng
+ Mua trực tuyến: Thuốc được chuyển qua đường bưu điện. Khi nhận được thuốc khách hàng thanh toán tiền COD.
Tag: cay Man xoi , vi thuoc Man xoi , cong dung Man xoi , Hinh anh cay Man xoi , Tac dung Man xoi , Thuoc nam
Thaythuoccuaban.com Tổng hợp
*************************
‘Thực Hư’ Tác Dụng Của Tinh Chất Mầm Đậu Nành
Các nghiên cứu khoa học cho thấy, trong mầm đậu nành có chứa hàm lượng lớn hoạt chất isoflavone, có cấu trúc phân tử tương tự như nội tiết tố nữ estrogen của phụ nữ. Ưu điểm của hoạt chất này là có khả năng tự đào thải khi dư thừa, vì vậy có thể giúp bổ sung, cân bằng nội tiết tố nữ một cách tự nhiên, an toàn, đẩy lùi các vấn đề do suy giảm hoặc rối loạn nội tiết tố nữ gây ra.
Tuy nhiên, nếu sử dụng trực tiếp các chế phẩm như mầm đậu nành hoặc bột mầm đậu nành để bổ sung isoflavone, thì đòi hỏi sẽ phải sử dụng một lượng đậu nành rất lớn và cơ thể khó hấp thu. Chính vì vậy, các nhà khoa học đã nghiên cứu và tinh chế ra tinh chất mầm đậu nành để đạt được hiệu quả cao và đem lại sự tiện lợi, an toàn khi sử dụng.
Tinh chất mầm đậu nành là dạng bào chế tinh khiết nhất của mầm đậu nành, đã được trải qua quá trình chiết xuất, cô đặc, làm giàu hoạt chất một cách công phu, hiện đại, Trong quá trình chiết xuất, các tạp chất bị loại bỏ hoàn toàn, chỉ giữ lại những hoạt chất có lợi, trong đó chủ yếu là Isoflavone có tác dụng bổ sung và tăng cường nội tiết tố nữ. Do đó, hàm lượng Isoflavone trong tinh chất mầm đậu nành là cao nhất, cơ thể dễ hấp thu, mang lại hiệu quả cao trong việc cải thiện làn da, vóc dáng, sinh lý cho phái đẹp.
Cũng tại Hội nghị Sản phụ khoa Việt – Pháp – châu Á – Thái Bình Dương lần thứ 16, các chuyên gia sản phụ khoa đã khẳng định hiệu quả của việc bổ sung estrogen thảo dược từ mầm đậu nành cho những phụ nữ có nguy cơ bị suy giảm hoặc rối loạn nội tiết tố nữ, như phụ nữ sau tuổi 30, phụ nữ sau sinh, phụ nữ tiền mãn kinh và mãn kinh, giúp: (1) Cân bằng nội tiết tố nữ; (2) Làm đẹp da, giảm nám sạm; giữ tóc chắc khỏe; (3) Tăng cường sinh lý nữ, giảm triệu chứng khô hạn, kích thích ham muốn; (4) Giảm bốc hỏa, vã mồ hôi đêm, tim đập nhanh, hồi hộp, cáu gắt, mất ngủ; (5) Giúp cải thiện sức khỏe của xương, ngăn ngừa loãng xương, giảm nồng độ cholesterol máu, bảo vệ tim mạch, phòng ngừa ung thư vú, ung thư tử cung…
Tinh chất mầm đậu nành tốt cần sử dụng giống đậu nành dược liệu, không biến đổi gen và đạt hàm lượng hoạt chất isoflavone cao nhất
Hiện nay, phần lớn người tiêu dùng đều đang bị nhầm lẫn giữa đậu nành thực phẩm và đậu nành dược liệu. Trong khi đậu nành thực phẩm chủ yếu có giá trị dinh dưỡng và hàm lượng protein cao, thì đậu nành dược liệu được sử dụng trong chăm sóc sức khỏe và làm đẹp, cần có hàm lượng isoflavone cao, cùng các hoạt chất omega 3,6,8, và vitamin E dồi dào.
Tại nước ta hiện nay có vùng trồng đậu nành của công ty Nam Dược là đáp ứng được các tiêu chuẩn của đậu nành dược liệu. Nói về giống đậu nành tại vùng trồng này, các chuyên gia viện Di truyền Nông nghiệp cho biết: “Chúng tôi đã nghiên cứu và phân tích hơn 10 giống đậu nành khác nhau và chọn ra giống đậu nành có hàm lượng isoflavone cao hơn hẳn các giống khác. Đây là giống thuần chủng, không biến đổi gen, đảm bảo hàm lượng hoạt chất sinh học cao, đáp ứng đầy đủ những tiêu chuẩn về dược liệu trong sản xuất dược phẩm”.
Tinh chất mầm đậu nành tốt cần đảm bảo quy trình trồng trọt, thu hái đạt chuẩn và công nghệ bào chế hiện đại
Để thu được tinh chất mầm đậu nành có hàm lượng hoạt chất cao và chất lượng đồng đều, thì quá trình trồng trọt, thu hái, bào chế đều phải đạt chuẩn. Nhiều chế phẩm đậu nành trên thị trường được thu hái không đúng thời điểm, gia công đơn giản, cùng công nghệ bào chế thô sơ, quá trình lên men, chiết xuất kém, làm hàm lượng giảm hoạt chất, hoặc thậm chí biến đổi thành hoạt chất khác, gây nguy hại cho sức khỏe của người sử dụng.
Hiện nay, vùng trồng đậu nành dược liệu của công ty Nam Dược là vùng trồng đậu nành được Cục quản lý Y Dược cổ truyền – Bộ Y tế chứng nhận đạt chuẩn GACP-WHO (Tiêu chuẩn thực hành tốt trồng trọt và thu hái dược liệu theo khuyến cáo của Tổ chức y tế thế giới). Những cây đậu nành dược liệu ở đây được chăm sóc với những quy trình và tiêu chuẩn khắt khe: Khu vực trồng cách xa khu dân cư, khu công nghiệp, đất, nước… không bị tạp nhiễm; Khu nhân giống riêng, tránh pha tạp, đặc biệt không sử dụng thuốc trừ sâu, diệt cỏ…
Tinh chất mầm đậu nành Bảo Xuân của công ty Nam Dược là thương hiệu nổi tiếng với công nghệ bào chế hiện đại và vùng trồng đậu nành dược liệu đạt chuẩn quốc tế GACP-WHO, 100% đậu nành không biến đổi gen, không nhiễm tạp chất, không sử dụng hóa chất độc hại trong suốt quá trình trồng trọt, thu hái, bảo quản…
Theo kết quả nghiên cứu của FTA (công ty nghiên cứu thị trường hàng đầu Nhật Bản, thành viên của Hiệp hội nghiên cứu thị trường Mỹ (MRA) tại New York và Chicago), cho thấy: “Trong các sản phẩm phụ nữ sử dụng để làm đẹp da, cải thiện sinh lý và các triệu chứng tiền mãn kinh thì Bảo Xuân là sản phẩm được khách hàng đánh giá là chất lượng tốt và hiệu quả nhanh. 97% khách hàng sử dụng Bảo Xuân thấy hiệu quả chỉ sau 42 ngày sử dụng”.
Bảo Xuân cũng vinh dự là thương hiệu được các chuyên gia sản phụ khoa đánh giá cao về chất lượng, độ an toàn và khuyên dùng cho chị em phụ nữ bị rối loạn nội tiết tố nữ, giúp phụ nữ sau tuổi 30, sau sinh, tiền mãn kinh, mãn kinh đẩy lùi các triệu chứng khó chịu như nám da, rụng tóc, rối loạn kinh nguyệt, thụ thai kém, suy giảm sinh lý, bốc hỏa,… và kéo dài tuổi thanh xuân.
Bạn có thể tìm mua Bảo Xuân chính hãng tại điểm bán gần nhất TẠI ĐÂY
Đặt mua Bảo Xuân ngay TẠI ĐÂY
Hoặc gọi tới tổng đài 1800.5777.59 (miễn cước gọi) để được tư vấn chi tiết về tinh chất mầm đậu nành và cách cải thiện làn da, vóc dáng và sinh lý cho phái đẹp.
Số GPQC: 02541/2016/XNQC-ATTP
Sản phẩm không phải là thuốc và không có tác dụng thay thế thuốc chữa bệnh
Bạn đang xem bài viết Ý Nghĩa Và Tác Dụng Của Lễ Bái trên website Iseeacademy.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!